Tác giả: Nguyễn Quang Dy
(1-2-2017)
Trước cơn địa chấn chính trị với hệ quả khôn lường đang diễn ra tại Mỹ và
toàn cầu,
trước đám mây đen và sóng dữ tại Biển Đông, con tàu Việt Nam phải làm thế
nào để thoát hiểm
và vượt ra biển lớn? Đây là thách thức to lớn và cơ hội mong manh đối với
Việt Nam, tại bước
ngoặt lịch sử khi thế giới đang bước sang một giai đoạn mới.
Bước ngoặt lịch sử
Tuy đã hơn bẩy thập kỷ sau ngày độc lập (2/9/1945) và hơn bốn thập kỷ sau
ngày kết
thúc chiến tranh Việt Nam (30/4/1975), nhưng đất nước dường như vẫn còn
luẩn quẩn tại ngã ba
đường của lịch sử. Việt Nam có quyết tâm đổi mới thể chế toàn diện hay
không? Có thực sự đi
theo con đường kinh tế thị trường và dân chủ hóa hay không? Liệu tranh luận
về “hai con
đường” đã đến lúc ngã ngũ, hay Việt Nam vẫn tiếp tục “đu dây”?
Một yếu tố mới xuất hiện, như một cơn địa chấn chính trị đang xô đẩy Việt
Nam phải
chọn một con đường. Ngày 8/11/2016 là “ngày định mệnh” đối với nước Mỹ
(cũng như nhiều
nước khác), khi Donald Trump bất ngờ thắng cử, trở thành tổng thống thứ
45 của Mỹ. Đó là một
chính biến làm thay đổi cuộc chơi (game changer), khiến nước Mỹ (và phần
lớn thế giới) ngỡ
ngàng, bối rối và lo sợ. Đó không phải chỉ là sự kiện thay đổi tổng thống
Mỹ như “đến hẹn lại
lên”, mà là một bước ngoặt lịch sử, mở ra một giai đoạn mới bất định. Khủng
hoảng chính trị Mỹ
có thể làm đảo lộn trật tự thế giới, “như khi Liên Xô sụp đổ” (năm
1991). (“America: the Failed
State”, Francis Fukuyama, Prospect, December 13, 2016)
Cơn địa chấn chính trị bất ngờ và bất định này đang làm nước Mỹ chia rẽ
sâu sắc, đe dọa
trật tự thế giới cũ và quan hệ quốc tế. Trong cuốn sách mới xuất bản,
Richard Haass (Chủ
tịch Council on Foreign Relations) nhận xét rằng từ đầu năm 2017,
chúng ta đang chứng kiến
“sự đảo lộn có tính hệ thống” (systemic disorder) và “mất
phương hướng chiến lược” (strategic
disorientation). (“A World in Disarray: American foreign Policy and the
Crisis of the Old
Order”, Richard Haass, Penguin Press, January 2017).
Nếu Donald Trump chơi lá bài Nga để chống Tàu (khác với Nixon-Kissinger
chơi lá bài
Tàu để chống Nga trước đây) thì ông ta có thể làm đảo lộn bàn cờ chiến lược
Biển Đông, cũng
như chính sách đối ngoại của các nước Đông Á và ASEAN (trong đó có Việt
Nam). Học thuyết
Kissinger về tam giác chiến lược Mỹ-Nga-Trung có thể bị đảo ngược
(“Reverse Kissinger”,
Blake Franko, American Conservative, January 10, 2017).
Nghịch lý Donald Trump là một hiện tượng lạ, nhưng đã có tiền lệ trong lịch
sử. Thời
xưa tại Trung Quốc, Lã Bất Vi ngộ ra rằng “buôn vua” lãi hơn tất cả, nên
đã bỏ kinh doanh đi
“buôn vua” và dựng lên Tần Thủy Hoàng. Lã Bất Vi còn đúc kết kinh nghiệm
viết “Lã Thị Xuân
Thu”. Nay tại Mỹ, Donald Trump cũng bỏ kinh doanh bất động sản, nhưng
không “buôn vua”
mà làm vua luôn. Donald Trump là Lã Bất Vi của nước Mỹ!
Trump vốn là con người thất thường, nên chính sách của Trump cũng bất thường.
Đặc
điểm chính sách của Trump là hành động ngay (không cần nghĩ trước), vì vậy
mọi chính sách
của chính quyền Trump có thể là “lâm thời” (adhoc). Chính vì Trump thiếu
nhất quán nên làm
thiên hạ khó đoán. Lệnh cấm nhập cảnh (travel ban) đối với 7 nước Hồi
giáo là một ví dụ, đang
gây tranh cãi và phản ứng làm náo loạn cả nước Mỹ.
Trong khi Trump quyết định rút khỏi TPP (bỏ ngỏ khu vực này cho Trung Quốc
thao
túng) thì ông ấy lại bổ nhiệm những nhân vật “diều hâu” chống Trung Quốc
(như Peter Navarro
và Rex Tillerson) vào những vị trí then chốt. Trước đây, Nixon-Kissinger
đã “vô tình” tạo ra con
quái vật Frankenstein và dung dưỡng nó lớn mạnh bằng kế sách
“Constructive Engagement”,
nay Trump lại “vô ý” rút khỏi TPP vì “America First”, mà hệ quả là bỏ rơi
khu vực này để nó tha
hồ lũng đoạn. Trung Quốc có thể thay thế TPP (do Mỹ đứng đầu) bằng RCEP (do
TQ cầm cái),
phân hóa và làm đảo lộn trật tự của Mỹ tại khu vực này.
Sắp xếp nhân sự
Sắp xếp nhân sự chủ chốt của Trump chính là dấu hiệu về đường lối chính
sách (đối nội
cũng như đối ngoại). Không chờ nhậm chức (20/1/2017) Trump đã bất ngờ ra
tay trước bằng
mấy nước cờ táo bạo, làm đảo lộn bàn cờ quốc gia lẫn quốc tế, đe dọa xóa
sổ di sản của Tổng
thống Obama và các đời tổng thống trước đó. Theo Newt Gingrich, “khoảng
60 hoặc 70% sắc
lệnh của Obama sẽ bị Trump hủy bỏ” (Fox News,
26/12/2016).
Thứ nhất, Trump không đợi Trung Quốc nắn gân mà đã phá lệ, thách thức
Trung Quốc
trước bằng cuộc điện đàm với tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn
(2/12/2016). Sự kiện đó
không phải ngẫu nhiên, mà là kết quả chuẩn bị nhiều tuần trước đó, giữa
các quan chức hàng đầu
hai bên (Bob Dole, Reince Priebus, Edwin Feulner). Bằng 10 phút điện đàm,
Trump đe dọa làm
sụp đổ chính sách “Một Trung Quốc” đã tồn tại hơn 4 thập kỷ. Tiếp theo điện
đàm, Trump còn
khẳng định, “Tôi quá hiểu chính sách ‘Một Trung Quốc’, nhưng tôi không
hiểu tại sao chúng ta
bị ràng buộc bởi chính sách đó” (Fox News,
11/12/2016).
Thứ hai, Trump bổ nhiệm Peter Navarro đứng đầu Hội đồng Thương mại Quốc
gia, có
văn phòng ngay trong Nhà Trắng, có nhiệm vụ phối hợp chính sách kinh tế để
đối phó với sự trỗi
dậy của Trung Quốc. Navarro là nhân vật chống Tàu, tác giả cuốn sách (và
bộ phim) “Chết Bởi
Trung Quốc”, nay trở thành nhà kinh tế quyền lực nhất. Bắc Kinh bị sốc
trước quyết định bổ
nhiệm Peter Navarro, cũng như Wilbur Ross (Bộ trưởng Thương mại), Robert
Lighthier (Đại
diện Thương mại). Sau cuộc điện đàm với Thái Anh Văn, việc bổ nhiệm ba
nhân vật “diều hâu”
chống Tàu là tín hiệu rõ ràng về ưu tiên của Trump. Chiến tranh thương mại
và chạy đua vũ
trang với Trung Quốc chỉ là vấn đề thời gian. Có nhiều lý do để Trung quốc
lo ngại vì kinh tế
đang xuống dốc và chính trị bất ổn. (“Peter Navarro is about to become
one of the world’s most
powerful economists”, Economist, Jan 21, 2017).
Thứ ba, Trump bổ nhiệm Rex Tillerson làm Ngoại Trưởng, một quyết định gây
tranh cãi,
không phải chỉ vì Tillerson là CEO của Exxon-Mobil, mà còn là nhân vật
thân với Putin. Phát
biểu của Tillerson trong buổi điều trần tại Thượng Viện (12/1/2017) càng
làm lãnh đạo Trung
Quốc bị sốc. Tillerson đã nói thẳng thừng rằng chiến dịch Trung Quốc xây
đảo nhân tạo trị giá
hàng tỷ đô-la tại Biển Đông (với tài nguyên dầu khí) là “bất hợp pháp
và giống Nga chiếm
Crimea…” và “Chúng ta sẽ nói rõ với Trung Quốc rằng trước
hết, họ phải chấm dứt xây dựng
đảo và thứ hai, chúng ta sẽ không cho phép họ tiếp cận các đảo này…”
Đó là một tín hiệu thay đổi lớn trong quan điểm của Mỹ về Biển Đông, với
hàm ý là Mỹ
sẽ dùng sức mạnh quân sự để ngăn chặn Trung Quốc bành trướng. Phát biểu của
Tillerson đã
làm chính giới và dư luận Trung Quốc bất ngờ và tức giận. Thực ra,
Tillerson từ lâu đã lo ngại về
Trung Quốc và thấy phải chống lại ý đồ quân sự hóa và bành trướng của
Trung Quốc tại Biển
Đông, sau vụ Exxon-Mobil (và các công ty khác) bị Trung Quốc ngăn cấm hợp
tác dầu khí với
Việt Nam. (“Rex Tillerson’s South China Sea Remarks Foreshadow Possible
Foreign Policy
Crisis”, Michael Forsythe, New York Times, Jan 12, 2017).
Stephen Bannon (chiến lược gia của Trump tại Nhà Trắng) cũng quan tâm đến
chiến lược
Châu Á và cho rằng chủ trương “xoay trục” sang Châu Á của Obama thất bại
vì thiếu ngân sách
quốc phòng nên yếu thế. Trump cũng bổ nhiệm nhiều tướng “diều hâu” và
chuyên gia về Trung
Quốc vào các vị trí chủ chốt như Bộ trưởng Quốc phòng (James Mattis), Cố
vấn An ninh Quốc
gia (Michael Flynn), Bộ trưởng Hải Quân (Randy Forbes), Giám đốc Châu Á tại
Hội đồng An
ninh Quốc gia (Matt Pottinger), Trợ lý Bộ trưởng về Châu Á tại Bộ Ngoại
Giao và Bộ Quốc
Phòng (Randall Schiver và Victor Cha). Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc là Terry
Branstad, tại Nhật là
William Hagerty, tại Ấn Độ là Ashley Tellis. (“Trump could make Obama’s
pivot to Asia a
reality”, Josh Rogin, Washington Post, Jan 8, 2017).
Bối cảnh quốc tế
Có thể nói, chính sách đối ngoại của chính quyền mới hình thành ngay
trong giai đoạn
chuyển giao quyền lực, trước khi Donald Trump nhậm chức. Diễn văn nhậm chức
của Trump sặc
mùi dân túy, chẳng khác diễn văn tranh cử trước đó, khẳng định quan điểm
đối ngoại cứng rắn
của Trump, và phủ nhận gần hết các di sản của Obama. Nó không chỉ làm người
Mỹ chia rẽ mà
còn làm thế giới hoang mang lo ngại, nhất là Trung Quốc.
Một số nhà phân tích cho rằng Trump sẽ chơi trò “ngoại giao tay ba”
(Triangular
Diplomacy) với Nga và Trung Quốc, nhưng “tinh tế hơn” (Alexander Vuving).
Thay vì dùng lá
bài Trung Quốc để chống Nga (thời Nixon-Kissinger), Trump sẽ dùng lá bài
Nga để chống
Trung Quốc. Lãnh đạo Trung Quốc tỏ ra lúng túng và bị động (như bị “phục
kích”), chưa biết
nên phản ứng và đối phó thế nào. Họ chưa gặp một Tổng thống Mỹ nào lại ăn
nói và hành xử
như vậy. Đối với một người không biết sợ như Trump, Trung Quốc rất khó nắn
gân và hù dọa.
Khó đoán được ý đồ thực của Trump là một thách thức lớn đối với Trung Quốc
(“Trump Tweets
China Retreats”, Gordon Chang, National Interest, Jan 6, 2017).
Trong khi Trung Quốc trỗi dậy “không hòa bình”, bắt nạt các nước khu vực và
thách thức
vai trò của Mỹ, thì Mỹ vẫn “chiều” họ bằng chính sách “Một Trung Quốc”
(như chiều
“Frankenstein”). Tuy Nixon đã qua đời, nhưng Kissinger, là tác giả của
chính sách “Một Trung
Quốc” (theo “Shanghai Communique”), vẫn còn nhiều ảnh hưởng như một cây cổ
thụ về chính
sách đối ngoại từ thập niên 1970 (dù nay đã 93 tuổi). Tính đến nay,
Kissinger đã đến thăm Trung
Quốc tới 80 lần, và quen biết hầu hết lãnh đạo nước này.
Gần đây nhất, sau khi Trump đắc cử, Kissinger đã đến Bắc Kinh gặp Tập Cận
Bình và
Vương Kỳ Sơn (1/12/2016), trong khi Trump điện đàm với Thái Anh Văn
(3/12/2016). Không
biết là Kissinger đã nói gì với Trump khi họ gặp nhau bàn về Trung Quốc,
nhưng sau đó
khi được hỏi ông nghĩ gì về cựu ngoại trưởng Kissinger, Trump đã Twitted,
“Một cây cổ thụ
đã mục ruỗng, thì không
nên tưới bón làm gì, chỉ tốn thời gian”.
Không phải Kissinger chỉ quan hệ chặt chẽ với Bắc Kinh, mà còn quan hệ chặt
chẽ với
Nga. Gần đây nhất, Kissinger đã đến Moscow đàm phán (bí mật) với Putin
(3/2/2016). Ông cho
rằng Mỹ sai lầm lớn nếu để Nga và Trung Quốc hình thành một liên minh
kinh tế và chính trị. Vì
vậy, Mỹ phải hợp tác với Nga để “cân bằng lực lượng toàn cầu”.
Nhưng tại sao Trump lại thân
thiện với Nga mà không thân thiện với Trung Quốc, trong khi cả Nga và
Trung Quốc đều tìm
cách thách thức lợi ích và vai trò toàn cầu của Mỹ?
Theo các cơ quan tình báo Mỹ (CIA và FBI), Nga đã can thiệp vào chính trị
Mỹ bằng
hacking (qua tin đồn giả) không phải chỉ làm Hillary Clinton thất cử, mà
còn làm Donald Trump
đắc cử, nhưng trở thành tổng thống “vịt què”, vì có tin đồn là Trump đã
quan hệ với gái điếm
Nga tại Moscow. Nói cách khác Trump đã từng bị tình báo Nga theo dõi và
khống chế. Việc rò rỉ
tin xấu vào đúng lúc Trump sắp nhậm chức có thể là đòn gió của Putin, muốn
tác động vào sắp
xếp nhân sự và chính sách của Trump (đối với Nga).
Dưới chính quyền Obama, chủ trương xoay trục sang Châu Á là một tầm nhìn
đúng,
nhưng thực hiện lại yếu vì Obama thiếu quyết đoán. Nay dưới chính quyền
Trump, triển vọng có
thể ngược lại, vì Trump là một tổng thống “con buôn” (dealer). Theo John
Hudak (Brookings),
có nhiều khả năng Trump sẽ điều hành Nhà Trắng như CEO của một tập đoàn
kinh doanh. Có
người còn cho rằng lãnh đạo thực sự của nước Mỹ không phải là Donald
Trump mà là Rex
Tillerson, vì “nước Mỹ không còn là một chế độ dân chủ, mà là một chế
độ tài phiệt”. (Jimmy
Carter interviewed by Oprah Winfrey, September 27, 2015).
Bối cảnh khu vực
Tuy ASEAN đã trở thành “cộng đồng kinh tế” (AEC), nhưng đoàn kết ASEAN
ngày
càng yếu, vì bị Trung Quốc thao túng. Không chỉ có Campuchea và Thailand,
mà cả Philippines
và Malaysia cũng “xoay trục” sang Trung Quốc. Nếu không sớm cải tổ cơ chế
thì ASEAN có thể
mất vai trò và “Đoàn kết ASEAN” chỉ còn là khẩu hiệu.
Nếu vai trò lãnh đạo của Mỹ về kinh tế và an ninh khu vực giảm đi, với
tương lai bất định
của TPP và chính sách “xoay trục” dưới chính quyền mới, thì vai trò kinh
tế và an ninh của Nhật
tại khu vực phải mạnh lên tương ứng. Bất ổn trong “tam giác Mỹ-Trung-Việt”
cần được hóa giải
bằng “tứ giác Nhật-Úc-Ấn-Việt” trên cơ sở đối tác chiến lược toàn diện, với
vai trò đầu tàu của
Nhật, thay thế một phần vai trò lãnh đạo của Mỹ.
Quan điểm cứng rắn của Rex Tillerson về Biển Đông là một dấu hiệu đáng mừng,
xuất
phát từ kinh nghiệm của ông ấy tại khu vực này, khi Exxon-Mobil có quan hệ
hợp tác tốt về dầu
khí với PetroVietnam (năm 2009) để khoan thăm dò hai vị trí tại Biển
Đông. Khi bị Trung Quốc
phản đối, các công ty khác buộc phải rút, nhưng Exxon-Mobil không bỏ cuộc,
mà vẫn lặng lẽ
theo đuổi dự án khai thác dầu khí tại Biển Đông. Vai trò của Exxon-Mobil
(như một cường
quốc) không chỉ có hợp tác dầu khí, mà còn vì địa chính trị.
Đáng chú ý là quan điểm cứng rắn của Rex Tillerson lại trùng hợp với quan
điểm cứng
rắn của TNS John McCain (và một số người khác). McCain cho rằng không quốc
gia nào ủng hộ
cho sự thành công của Trung Quốc nhiều hơn là Mỹ… nhưng Trung Quốc lại chọn
cách sử dụng
sức mạnh và vị thế đang lớn lên của họ để phá vỡ trật tự đó. Trung quốc
đã từng bước triển khai
chính sách dọa dẫm và cưỡng bức để hỗ trợ cho mục tiêu bành trướng, một
tiến trình được tăng
tốc quyết liệt dưới sự lãnh đạo của Tập Cận Bình.
McCain còn cho rằng Mỹ và Việt Nam chia sẻ một loạt những quyền lợi kinh
tế và chiến
lược, và tin rằng đã đến lúc hai quốc gia cần triển khai “Sáng kiến Hàng
hải Việt-Mỹ” (USVietnam
Maritime Initiative). Sáng kiến này có thể bao gồm việc mở rộng các cuộc
tập trận hỗn
hợp trên biển. McCain hoan nghênh Việt Nam tham gia cuộc tập trận
“Pacific Rim” và cho rằng
Hải quân Hoa Kỳ cần tăng cường thăm Việt Nam…
TNS John Mccain và TNS Jack Reed đã cộng tác để bảo trợ “Sáng kiến An
ninh Hàng
hải” (Maritime Security Initiative), với kinh phí 1/2 tỉ USD, cho phép Bộ
Quốc phòng Mỹ nâng
cao năng lực hàng hải cho các đối tác của Mỹ tại Đông Nam Á…Năm nay, Ủy
ban hành động
lưỡng đảng sẽ nâng cấp sáng kiến này và cung cấp thêm nhiều nguồn lực mới.
McCain cũng ủng
hộ TPP, và cho rằng “Nếu TPP thất bại thì sự lãnh đạo của Mỹ tại Châu
Á-Thái Bình Dương có
thể thất bại theo…” (“The Need for Renewed
American Leadership in Asia-Pacific”, John
McCain, the Herritage Foundation, December 29, 2016).
Bối cảnh Việt Nam
Trong giai đoạn mới, ngoại giao Việt Nam lại đứng trước ngã ba đường. Việt
Nam phải
định hướng lại mục tiêu chiến lược (vì lợi ích dân tộc) và điều chỉnh
chính sách kịp thời. Chính
sách “đu dây” của Việt Nam nhằm giữ thăng bằng với hai nước lớn (Trung Quốc
và Mỹ) là một
đặc thù lâu nay gây nhiều tranh cãi. Đây là một dịp tốt để lý giải nhằm
làm rõ và điều chỉnh
chính sách “đu dây” này trong bối cảnh quốc tế mới.
Trong lịch sử, Việt Nam đã từng phải “đu dây” giữa hai cường quốc cộng sản
“thân hữu”
nhưng “đồng sàng dị mộng” là Liên Xô và Trung Quốc. Muốn hay không, đó là
định mệnh (hay
nghịch lý) đối với Việt Nam, một nước nhỏ phải dựa vào hai nước lớn “thân
hữu” để “chống Mỹ
cứu nước”. Thật trớ trêu, Việt Nam nay lại phải “đu dây” giữa Mỹ và Trung
Quốc, như sự kế
thừa và tiếp nối một định mệnh (hay một nghịch lý).
Trong khi Trung Quốc là nước láng giềng khổng lồ mà Việt Nam không được lựa
chọn
nhưng phải chung sống suốt đời, thì Liên Xô và Mỹ (cũng như Pháp) là những
đế quốc “ngoại
bang” mà Trung Quốc luôn ôm mối hận để phục thù. Điều đó lý giải tại sao
Việt Nam phải “đu
dây”. Vấn đề không phải chỉ là hành động “đu dây” mà là lý do “đu dây”,
và cách thức “đu
dây”, liên quan đến bối cảnh lịch sử, lợi ích dân tộc, ràng buộc ý thức hệ,
có thể làm người ta lẫn
lộn về thái độ chính trị và ngộ nhận về bạn/thù. Đừng quên rằng, “không
có đồng minh và kẻ thù
vĩnh viễn, chỉ có lợi ích dân tộc vĩnh viễn” (Palmerston).
Chủ nghĩa “tiệm tiến” (gradualism) và quan niệm “đặc thù”
(exceptionalism) trong
chính sách của Việt Nam, phản ánh tư tưởng bảo thủ (vì ý thức hệ), tư duy
truyền thống (theo
quy trình), và tâm trạng lo sợ hoặc nghi ngại (do tâm lý). Tâm trạng này
có thể trở thành rào
cản đối với tư duy đổi mới sáng tạo trong một cục diện mới. Theo Alexander Vuving, “Việt Nam
tiếp tục tách xa dần (nhưng không quá xa) Trung Quốc, và tiếp tục xích lại
gần (nhưng không
quá gần) Mỹ, sợ làm Trung Quốc tức giận”. (“Cops, Robbers and the South
China Sea’s New
Normal”, Alexander Vuving, National Interest, Dec 23, 2016).
Đến lúc phải xoay trục
Đã đến lúc phải “kiểm toán” chính sách đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ
“Hậu Thành
Đô” (1990-2016), trên cơ sở thành công hay thất bại. Qua mấy thập kỷ, Việt
Nam đã bị lệ thuộc
quá nhiều vào Trung Quốc, cả về kinh tế, chính trị, và đối ngoại, vì mắc
phải cái vòng “kim cô”.
Muốn khắc phục những hệ lụy to lớn và lâu dài đó, Việt Nam phải đổi mới
thể chế toàn diện, cả
về kinh tế lẫn chính trị, cả về đối nội lẫn đối ngoại.
Quan hệ “4 tốt” và “16 chữ vàng” chính là cái vòng “kim cô” để Trung Quốc
thực hiện
tham vọng bành trướng bá quyền ở Biển Đông (như “Đường 9 đoạn”). Nó làm
Việt Nam tụt hậu,
bất ổn, và mất dần chủ quyền lãnh thổ. Theo World Bank, Viêt Nam đã mất
15.420 km2 đất liền
(năm 2000), ngoài mất Hoàng Sa (1974) và một phần Trường Sa (1988). Sự kiện
dàn khoan
HD981 tại Biển Đông là một bước ngoặt bộc lộ bộ mặt thật của Trung Quốc,
làm lãnh đạo Việt
Nam giật mình tỉnh giấc khỏi ảo tưởng và ngộ nhận.
Chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn trước dựa trên bốn trụ cột:
(1) độc lập tự
chủ (trong đó có chính sách “3 không”), (2) đa phương đa dạng hóa (trong
đó có chủ trương
“thêm bạn bớt thù”), (3) vừa hợp tác vừa đấu tranh (trong đó có “đối tác
hợp tác” và “đối tượng
đấu tranh”), (4) chủ động và tích cực hội nhập quốc tế (để trở thành “đối
tác tin cậy” của cộng
đồng quốc tế). Các trụ cột đó về cơ bản là đúng (như khẩu hiệu), nhưng
không ổn (về thực chất)
vì sự bất cập giữa tuyên bố chính sách (declared policy) và thực tiễn
(reality), do thể chế lỗi thời
và cái “vòng kim cô” làm lệ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc.
Chính sách đối ngoại giai đoạn mới phải giúp Việt Nam thoát khỏi lệ thuộc
vào Trung
Quốc, để quan hệ dựa trên “tái cân bằng tích cực” (active rebalance). Tái
cân bằng tích cực
không phải là “đu dây”, và “thoát Trung” không có nghĩa là quay lưng lại
với Trung Quốc. Sau
sự kiện dàn khoan HD 981 và chiến dịch quân sự hóa các đảo mà Trung Quốc
chiếm giữ tại Biển
Đông, Việt Nam đã xích lại gần Mỹ. Chuyến thăm Mỹ chính thức của CTN
Trương Tấn Sang
(7/2013) và TBT Nguyễn Phú trọng (7/2015) là một bước ngoặt cho “đối tác
toàn diện” và tầm
nhìn chung Mỹ-Việt về an ninh quốc phòng, làm tam giác Mỹ-Trung-Việt thay
đổi, nhưng vẫn
chưa đủ trở thành “đối tác chiến lược” (vì cái “vòng kim cô”).
Chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Obama (23/5/2016) với tuyên bố bỏ cấm
vận vũ
khí, đã kết thúc quá trình bình thường hóa hơn 2 thập kỷ. Nhưng đáng tiếc,
Việt Nam đã “đu
dây” quá lâu (suốt 8 năm) không tranh thủ được cơ hội “xoay trục” của Mỹ
dưới thời Obama để
nâng cấp quan hệ thành “đối tác chiến lược” (như với 10 nước khác). Cơ hội
đó đã bị tuột mất vì
dưới chính quyền Donald Trump, TPP đã bị gác lại, chủ trương “xoay trục”
cũng bị xem xét lại,
và di sản của Tổng thống Obama có thể bị xóa sổ.
Những giá trị cốt lõi
Thực chất quan hệ Trung-Việt (thời kỳ “Hậu Thành Đô”) là bất bình đẳng và
lệ thuộc quá
nhiều vào Trung Quốc. Đã đến lúc Việt Nam phải “xoay trục” để thoát khỏi
tình trạng “cân bằng
tiêu cực”, thể hiện qua chính sách “3 không” và “đu dây” với các nước lớn
để tồn tại. Chính sách
đối ngoại trong giai đoạn mới (đổi mới vòng 2) cần dựa trên ba tiêu chí
cơ bản, như giá trị cốt
lõi: (1) độc lập trưởng thành (mature independence), (2) tái cân bằng
tích cực (active rebalance),
và (3) hội nhập tích cực (proactive integration).
Một chính sách đối ngoại “độc lập trưởng thành” phải nhất quán về tư duy
chiến lược, lấy
lợi ích dân tộc làm mục tiêu tối hậu, không lệ thuộc vào ý thức hệ đã lỗi
thời. Đã đến lúc người
Việt phải đổi mới tư duy triệt để, không thể tiếp tục “đu dây” cả về đối
nội và đối ngoại tại ngã
ba đường, như mấy thập kỷ qua. Cái giá phải trả về lợi ích lâu dài (do sự
trì trệ) lớn hơn nhiều so
với cái lợi trước mắt (vì “hoàng hôn nhiệm kỳ”).
Một chính sách đối ngoại “tái cân bằng tích cực” phải dựa trên sự cân đối
và tương hỗ
giữa đối nội và đối ngoại, giữa lợi ích quốc gia và hội nhập quốc tế, giữa
cải cách thể chế kinh tế
và đổi mới thể chế chính trị, để phát triển bền vững và dân chủ hóa. Để
khai phóng năng lượng
sáng tạo của người dân, phải xóa bỏ cơ chế lỗi thời về quyền sở hữu ruộng
đất và độc quyền cho
doanh nghiệp nhà nước theo “định hướng XHCN”.
Một chính sách đối ngoại “hội nhập tích cực” phải giúp các doanh nghiệp
có điều kiện và
cơ hội để hội nhập quốc tế, tham gia chuỗi giá trị và cung ứng toàn cầu.
Dù tương lai TPP ra sao,
thì Việt Nam vẫn phải sẵn sàng tham gia các thể chế tự do mậu dịch quốc tế
(thế hệ mới). Việt
Nam đã đi được một quãng đường dài từ WTO đến TPP, nhưng nhiều doanh nghiệp
Việt Nam
vẫn chưa quen với sân chơi toàn cầu hóa. Cần giúp họ phát huy các lợi thế
tương đối của mình,
để tăng cường năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Trong bối cảnh Tổng thống đắc cử Donald Trump điện đàm với bà Thái Anh
Văn, bổ
nhiệm Peter Navarro làm chủ tịch Hội đồng Thương mại Quốc gia, và cử Rex
Tillerson làm
Ngoại trưởng (với những phát biểu cứng rắn chống Trung Quốc), thì TBT
Nguyễn Phú Trọng lại
vội vàng sang thăm Trung Quốc (từ 12/1/2017). Ngay hôm sau, ngoại trưởng
Mỹ John Kerry tới
thăm Việt Nam lần cuối (13/1/2017). Thời điểm hai chuyến thăm bộc lộ sự bất
cập chứng tỏ Việt
Nam vẫn đang “đu dây” (vì sức ép của Trung Quốc).
Trong khi đó, PetroVietnam và Exxon-Mobil ký hai hợp đồng về khí tại mỏ
“Cá voi
xanh” (Blue Whale). Điều đáng lưu ý là thời điểm ký kết trùng với chuyến
thăm của TBT
Nguyễn Phú Trọng và ngoại trưởng John Kerry, điều trần tại Thượng Viện của
Rex Tillerson
(ngoại trưởng mới được đề cử) với những phát biểu cứng rắn chống Trung Quốc.
Trong bối cảnh
Trump quyết định rút khỏi TPP, thì hợp đồng hợp tác dầu khí với
Exxon-Mobil tại Biển Đông
không chỉ quan trọng về kinh tế, mà còn có ý nghĩa lớn về địa chiến lược.
Ngay sau đó, thủ tướng Nhật Shinzo Abe đã đến thăm Việt Nam (16/1/2017)
nhằm tăng
cường hợp tác tại Biển Đông. Nhật muốn cải thiện năng lực tuần duyên của
Việt nam, nên đã
quyết định viện trợ cho Việt Nam thêm 6 tầu tuần duyên mới. Một quan chức
Bộ Ngoại Giao
Việt Nam phát biểu “hy vọng Nhật có vai trò lớn hơn về hợp tác an ninh
quốc phòng”. Quan hệ
Nhật-Việt cần phát triển theo hướng xây dựng nền tảng cho một tứ giác chiến
lược mới do Nhật
làm đầu tầu (“Japan-Australia-India-Vietnam Partnership”).
Thay lời kết
Khi môi trường quốc tế và khu vực có nhiều biến động khó lường, và tình
hình kinh tế,
chính trị trong nước có nhiều bất ổn, đòi hỏi phải cải cách thể chế toàn
diện (cả kinh tế và cính
trị), thì chính sách đối ngoại cũng phải đổi mới theo tương ứng. Chính
sách đối ngoại tuy là cánh
tay kéo dài của chính sách đối nội, nhưng có nhiệm vụ làm đòn bẩy, hỗ trợ
quá trình “đổi mới
vòng 2” để phát triển bền vững. Đề cương đổi mới chính sách đối ngoại cần
dựa trên đề cương
đổi mới toàn diện của chiến lược phát triển quốc gia.
“Báo cáo Việt Nam 2035” chính là đề cương đổi mới, làm cơ sở xây dựng
chính sách đối
ngoại thời kỳ mới. Muốn thay đổi, phải gắn kết được trên với dưới, trong
với ngoài, để huy động
tối đa nguồn lực của dân tộc, nhằm kiến tạo một quốc gia giàu mạnh và văn
minh. Đến lúc người
Việt phải chứng minh Việt Nam không phải là một quốc gia hèn kém và lệ
thuộc, quen dựa vào
viện trợ nước ngoài, rằng người Việt Nam có thể hòa giải dân tộc, đứng dậy
từ đổ nát và li tán,
để tái tạo một quốc gia độc lập và dân chủ. Chỉ có độc lập và dân chủ mới
thu phục được nhân
tâm để kiến tạo một quốc gia giàu mạnh và văn minh.
NQD. 1/2/2017 (5 Tết Đinh Dậu)
----------------------------------------------------------------------------------------
Sưu tầm trên mạng (Bản tin của GSTL ). Cảm ơn Nguyên Hân cung cấp
Sưu tầm trên mạng (Bản tin của GSTL ). Cảm ơn Nguyên Hân cung cấp
Nhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóaNhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóaBài viết về chính sách đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn mới rất hay, rất có tính khả thi. Chúc tác giả có thêm nhiều bài viết hay hơn nữa. Nhân đây, mình muốn hỏi chuyện ngoài lề một chút là cắt mí mắt ở đâu đẹp và an toàn, có ai biết thì chỉ mình với.
Trả lờiXóa