Calathau : Tác giả bài viết này , Bill Hayton , cho rằng Trung Quốc " nhớ lầm", nhưng có lẽ không phải, mà chính TQ đã cố tình đáng tráo sự thật lịch sử để kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan của người dân nước họ sau khi đã trải qua biết bao cay đắng vì bị các nước khác nhỏ hơn hạ nhục . Bài viết khá dài, chuyển ngữ sang tiếng Việt nên đọc hơi "rối". Cốt lõi là Trung Quốc từ QDĐ đến CS nắm quyền đều "ăn theo" phương Tây khi họ mới là người đến đầu tiên đặt tên cho các hòn đảo ở Hoa Đông mà sau này người Tầu dịch ra tiếng Hán rồi nhận bừa là người Tầu đã đến và xác lập chủ quyền đầu tiên. . Song mọi sự thật không nằm ở Bắc Kinh, mà lại đang nằm ở Đài Bắc ! Ầm ĩ nhất là cái "lưỡi bò" ngoạm đến 80% Biển Đông thì cũng chỉ là sản phẩm tưởng tượng vẽ ra giấy bởi 1 gã công dân thời Trung Hoa Dân Quốc !
Bởi vậy nên Bill Hayton cho rằng "Có lẽ câu trả lời nằm ở Đài Loan. Các cơ
hội cho một cuộc tranh luận tự do hơn về lịch sử TQ ở Đài Loan lớn hơn ở
đại lục rất nhiều "
Bill Hayton
Huỳnh Phan dịch/ Ba Sàm
Ảnh bên:Bài báo trên SCMP, ngày 3/1/1947, về việc Trung Hoa Dân Quốc được Mỹ tặng chiếc tàu, có nêu trong bài viết trên.
Cả nước đã được dạy sai, rằng người Trung Quốc đã phát hiện và đặt tên các đảo ở biển Đông
Biển Đông là nơi mà tham vọng của Trung
Quốc (TQ), nỗi âu lo của châu Á và sức mạnh của Mỹ hội tụ nhau. Trong
vùng biển của mình, TQ đã từ bỏ mọi giả vờ về “trỗi dậy hòa bình” để ngã
về kiểu ngoại giao pháo hạm. Tàu cảnh sát biển vũ trang của TQ đã đâm
vào tàu của đối phương Việt Nam, phong tỏa các tiền đồn của Philippines,
ngăn trở các tàu khảo sát dầu của Malaysia và doạ nạt các tàu Indonesia
đang bảo vệ ngư trường quốc gia.
Đáp lại, tất cả các nước này đang mua
vũ khí nhiều hơn và cải thiện quan hệ quân sự với chính phủ các nước
khác, lo lắng với sự quyết đoán ngày càng tăng của TQ – chủ yếu là Hoa
Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và Australia.
Cội rể của tất cả các rắc rối này là
điều mà Bắc Kinh gọi là “yêu sách lịch sử không thể tranh cãi” chiếm tới
đến 80% biển Đông: chạy thẳng từ cảng Hồng Kông tới gần sát bờ biển
Borneo cách xa 1.500 km. Vấn đề với yêu sách này là không có bằng chứng
đáng tin cậy nào làm chỗ dựa cho nó. Tuy nhiên, mẫu chuyện hư cấu lịch
sử này đe dọa hòa bình và an ninh ở châu Á và cung cấp sàn diễn cho một
cuộc đấu tranh giữa TQ và Mỹ với những tác động mang tính toàn cầu.
Dường như rất khó có thể tin rằng cuộc đối đầu tiềm năng có tính huỷ
diệt này lại có gốc rễ là tranh chấp về những đảo rải rác gần như hoàn
toàn không thể sinh sống được.
Có hai nhóm “đảo” chính ở biển Đông.
(Chỉ có một số rất ít là đảo thực sự, phần lớn chỉ là rạn san hô, bãi
cát hoặc đá). Trong cụm phía bắc, quần đảo Hoàng Sa đang có tranh chấp
giữa TQ và Việt Nam. Ở phía nam quần đảo Trường Sa rộng hơn nhiều do TQ,
Việt Nam, Malaysia, Brunei và Philippines đòi hỏi chủ quyền. Hầu hết
những chỗ hoang vắng này đều có tên tiếng Anh, thường do các tàu và các
nhân viên trên tàu vẽ ra bản đồ các đảo này tặng cho tên riêng. Richard
Spratly là một thuyền trưởng tàu săn cá voi đã phát hiện hòn đảo có tên
ông vào năm 1843, tàu HMS Iroquois cho tên của mình cho đá Iroquois (bãi
Amy Douglas) trong khi làm công việc khảo sát trong thập niên 1920, và
cứ thế tiếp tục…
Khi một ủy ban của chính phủ TQ lần đầu
đặt tên tiếng Trung cho các đảo vào năm 1935, mọi việc họ làm là dịch
hoặc phiên âm các tên tiếng Anh đang có. Ví dụ, ở quần đảo Hoàng Sa, đá
Antelope Reef (Hải Sâm) trở thành Lingyang (羚羊: linh dương = antelope)
và ở quần đảo Trường Sa, North Danger Reef (đá Bắc) trở thành Beixian
(北崄: bắc hiểm [nguy hiểm phía bắc = north danger], đảo Spratly (Trường
Sa đã trở thành Si-ba-la-te-li – 斯普拉特利phiên âm tên tiếng Anh)(1).
Uỷ ban TQ chỉ việc sao y các bản đồ, các sai sót và mọi thứ của Anh.
Các tên này sau đó được xem xét chỉnh lại hai lần. Bãi cạn Scarborough,
được đặt tên theo tên một tàu của Anh vào năm 1748, được phiên âm là Si
ka bo lei jiao (斯卡伯勒礁 –Tư ca bá lặc tiều) vào năm 1935, đổi tên thành
Min’zhu Jiao (民主礁- Dân chủ tiều [đá Dân chủ]) của nước THDQ vào năm 1947
và sau đó được CHNDTH đặt tên ít nhạy cảm chính trị hơn là Huangyan
(黄岩岛 – Hoàng Nham [đá màu vàng]) vào năm 1983.
Hiện nay, chính quyền TQ dường như hoàn
toàn không biết về điều này. Việc biện hộ khuôn mẫu chính thức về chủ
quyền “không thể tranh cãi” của TQ đối với biển Đông bắt đầu bằng cụm từ
“người TQ là những người đầu tiên phát hiện và đặt tên cho quần đảo Nam
Sa”. Trên thực tế, “người TQ” chỉ sao chép các tên này từ người Anh.
Ngay cả từ “Nam Sa” (có nghĩa là “cát phía Nam”) cũng đã chạy vòng quanh
trên bản đồ TQ. Năm 1935 tên này đã được sử dụng để mô tả các khu vực
biển cạn, được biết tên tiếng Anh là “Macclesfield Bank” (lại theo tên
một tàu khác của Anh). Năm 1947, tên Nam Sa đã được chuyển về phía nam
trên bản đồ TQ để chỉ quần đảo Trường Sa.
Một cuộc xem xét đầy đủ mỗi biện minh mà
phía TQ đưa ra sẽ tốn nhiều trang giấy nhưng đủ để nói rằng chưa hề
thấy có bằng chứng khảo cổ học nào về việc có tàu TQ chạy trên biển này
trước thế kỷ 10. Cho đến thời điểm đó, tất cả việc giao thương và khai
thác đều do các tàu thuyền Malaysia, Ấn Độ và Ả Rập thực hiện. Các tàu
này có thể, vào lúc này lúc khác, có chở khách TQ. Các chuyến đi được
bàn luận nhiều của các “đô đốc thái giám” TQ kể cả Zheng He (Trịnh Hoà),
kéo dài tổng cộng khoảng 30 năm, cho đến thập niên 1430. Sau đó, mặc dù
các thương nhân và ngư dân chạy tàu thuyền tới lui vùng biển này, nhà
nước TQ không bao giờ đến các vùng biển sâu lần nào nữa cho mãi đến khi
chính phủ Quốc dân đảng được Mỹ và Anh tặng cho một số tàu thuyền vào
cuối Đệ Nhị Thế chiến.
Lần đầu tiên quan chức chính phủ TQ đặt
chân lên một đảo thuộc quần đảo Trường Sa là ngày 12 tháng 12 năm 1946,
vào thời điểm đó cả hai đế quốc Anh và Pháp đã đưa ra các tuyên bố chủ
quyền ở vùng biển này. Một phái đoàn TQ cấp tỉnh đã đến quần đảo Hoàng
Sa một vài thập niên trước đó vào ngày 6 tháng 6 năm 1909, thực hiện
điều có vẻ như là một cuộc thị sát trong một ngày, nhờ hai thuyền trưởng
Đức mượn của hãng buôn Carlowitz dẫn đường. Nhiều đối đầu quốc tế phát
xuất từ tuyên bố đơn sơ này.
Đây là bức tranh toàn cảnh lịch sử hiện
ra từ các nghiên cứu độc lập tốt nhất. Nhưng khi nói điều này cho bất kỳ
người TQ nào nghe, thì họ sẽ phản ứng với sự ngờ vực. Từ phòng học đến
sảnh đường ngoại giao, một ký ức chính thức về chủ quyền của TQ trên
biển đã trở thành một thực tế được xác lập. Làm sao mà một ý thức quốc
gia về quyền được hưởng đối với biển Đông lại phát triển rất mạnh từ một
nền móng lung lay như vậy?
Câu chuyện có thể bắt đầu với cuộc chiến
tranh nha phiến lần một vào năm 1840 và điều mà bây giờ người TQ gọi là
“thế kỷ quốc sỉ (thế kỷ nhục nước)” tiếp sau đó. TQ rõ ràng gánh chịu
đau thương dưới bàn tay của đế quốc phương Tây và Nhật Bản. Hàng ngàn
người bị giết, nhiều thành phố đã bị thuộc địa hoá và chính phủ rơi vào
vòng nợ nần các ngân hàng quốc tế.
Nhà địa lý William Callahan và những
người khác đã vạch ra cách mà phe Quốc dân đảng (QDĐ) và Cộng sản, như
là một phần của cuộc đấu tranh chống lại sự thống trị của nước ngoài, đã
cố tình gieo trồng một ý thức về vi phạm lãnh thổ để động viên nhân dân
như thế nào. Từ những năm 1900 trở đi, các nhà địa lý của TQ như Bai
Meichu (Bạch Mi Sơ), một trong những người sáng lập Hội Địa lý TQ, bắt
đầu vẽ các bản đồ cho công chúng TQ thấy các nước đế quốc đã xâu xé lãnh
thổ TQ tới mức nào.
Những “bản đồ quốc sỉ” này cho rằng lãnh
thổ hợp lẽ của TQ bao gồm tất cả các nước chư hầu trước kia đã từng
triều cống hoàng đế Trung Hoa. Các bản đồ này bao gồm bán đảo Triều
Tiên, nhiều vùng rộng lớn của Nga, Trung Á, Hymalaya, và nhiều khu vực
Đông Nam Á. Các đường được vẽ trên các bản đồ để đối chiếu các khu vực
rộng lớn của đế quốc xưa với tình trạng teo lại của đất nước này. Tai
hại là sau khi ủy ban chính thức của TQ đổi tên các đảo trên biển Đông
vào năm 1935, một trong những đường này đã được vẽ ra vòng quanh biển
này. Đây là điều mà bây giờ được gọi là đường “chữ U” hoặc “9 vạch”
choán 80% biển Đông và tất cả các đảo bên trong nó. Tai nạn bản đồ đó,
dựa trên việc đọc sai lịch sử Đông Nam Á, lại là cơ sở cho yêu sách chủ
quyền hiện tại của TQ.
TQ rõ ràng gánh chịu sự sỉ nhục dưới bàn
tay của người nước ngoài độc đoán nhưng nhà nước hiện đại nổi lên từ
đống đổ nát của nhà Thanh và các cuộc nội chiến sau đó đã tìm thấy niềm
an ủi trong những ghi nhớ sai lầm vốn ít liên quan đến những gì thực sự
xảy ra. Như bất kỳ người nào đi xem triển lãm “Con đường hồi sinh” mới
tại Bảo tàng Quốc gia TQ ở quảng trường Thiên An Môn sẽ thấy ra, hội
chứng nhớ lầm này là một thành phần cốt lỏi trong huyền thoại làm nên
tính chính đáng của Đảng Cộng sản: huyền thoại đảng cứu đất nước thoát
khỏi sỉ nhục.
Các viện nghiên cứu và các ủy ban của
chính phủ Quốc dân Đảng trong nửa đầu thế kỷ 20 đã để lại Đảng Cộng sản
một “lịch sử chính thức” sai lầm có thể chứng minh được. Chính điều này,
chứ không phải là mối đe dọa của đám đông theo chủ nghĩa dân tộc trên
đường phố làm cho tranh chấp Biển Đông rất khó giải quyết và nguy hiểm.
Nhưng nếu thừa nhận sự sai trái của nó, sẽ loại bỏ một nền tảng cốt lỏi
vị thế của Đảng trong đỉnh cao của xã hội TQ.
Rủi thay, không có cách dễ dàng nào khác
cho xung đột đang tiếp diễn trên biển Đông. Không bên nào muốn kích
động một cuộc xung đột hoàn toàn nhưng không ai sẵn sàng giảm bớt căng
thẳng bằng cách điều chỉnh yêu sách lãnh thổ phải chăng hơn. Một số quan
chức TQ đã bí mật thừa nhận sự vô lý về pháp lý của việc duy trì yêu
sách “đường chữ U” này. Nhưng cũng chính những quan chức này lại nói
rằng họ không thể chính thức điều chỉnh yêu sách này vì những lý do
chính trị (sự chỉ trích trong nước sẽ rất lớn). Thế thì làm thế nào để
có thể thuyết phục người dân TQ có một cái nhìn khác về lịch sử biển
Đông?
Có lẽ câu trả lời nằm ở Đài Loan. Các cơ
hội cho một cuộc tranh luận tự do hơn về lịch sử TQ ở Đài Loan lớn hơn ở
đại lục rất nhiều. Hiện đã có một số học giả “bất đồng chính kiến” đang
xem xét lại các khía cạnh của lịch sử thế kỷ 20. Đài Loan cũng là nơi
các văn thư của THDQ, chính phủ vẽ nên “đường chữ U” lần đầu, được lưu
trữ. Một cuộc kiểm tra thấu đáo và mở rộng quá trình lộn xộn mà theo đó
đường này được vẽ ra có thể thuyết phục những người làm ra dư luận phải
xem xét lại một số huyền thoại của Quốc dân Đảng mà từ lâu họ đã tuyên
bố như là chân lý trong kinh.
Có lẽ lý do mạnh nhất để bắt đầu tại Đài
Loan là chính quyền Bắc Kinh sợ rằng bất kỳ sự nhượng bộ nào họ có thể
đưa ra, sẽ bị lớn tiếng chỉ trích tại Đài Bắc. Nếu nhà chức trách ở đó
muốn xuống thang sự xung đột do việc chép sử trên biển Đông, thì sẽ dễ
dàng hơn nhiều để chính quyền Bắc Kinh làm tương tự như vậy. Chìa khóa
cho một tương lai hòa bình ở châu Á nằm trong việc xem xét trung thực và
có tính phê phán quá khứ.
Quyển sách The South China Sea and the struggle for power in Asia (Biển Đông và cuộc đấu tranh giành quyền lực ở châu Á) của Bill Hayton sẽ được Đại học Yale xuất bản vào tháng 9.
—–
(1) Lưu ý rằng đối với âm R người Hoa thường chuyển thành âm L (ví
dụ: Roma –> Luó Mă [La Mã], Rousseau–> Lú Suō [Lư Thoa]… mới thấy
Si-pu-la-te-li [tư phổ lạp đặc lợi - 斯普拉特利] là phiên âm của S-p-ra-t-ly,
hoặc Pai-la-su [phách lạp tô - 柏拉苏] là Pa-ra-cel… Qua đó cũng thấy khi
chuyển thêm qua âm Hán Việt thì thường là cách biệt quá xa so với âm gốc
như mấy ví dụ vừa nêu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét