“GÁC
LẠI QUÁ KHỨ
CHỨ KHÔNG PHẢI KHÉP LẠI QUÁ KHỨ”
TS Tràn Công Trục
06:57 17/02/17
(GDVN)
- Đánh giá lại cuộc xâm lăng Biên giới Việt Nam 1979-1989 mà Trung Quốc tiến
hành, cần đặt nó vào khung pháp lý quốc tế để xác định nguyên nhân, tìm ra bài
học.
LTS: Kỷ niệm 38 năm chiến tranh vệ quốc
chống xâm lược ở biên giới phía Bắc, Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban
Biên giới Chính phủ có bài viết gửi riêng tới Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam.
Trong bài là nhận thức, quan điểm, góc
nhìn và cách hành văn của riêng tác giả, Tòa soạn trân trọng giới thiệu cùng độc
giả.
![]() |
Xe tăng, xe vận tải quân sự TQ ngang ngược tiến vào Cao Bằng |
38 năm qua đi, hai nước đã bình thường hóa quan hệ
26 năm, nhưng nỗi ám ảnh từ cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược trên toàn tuyến
biên giới phía Bắc năm 1979 và những xung đột quân sự suốt 10 năm sau đó vẫn
còn dai dẳng.
Không ai hiểu rõ hơn những người dân Việt Nam sống dọc
tuyến biên giới với Trung Quốc, không ai hiểu hơn những gia đình liệt sĩ, những
thương bệnh binh và cựu chiến binh từng có mặt ở tuyến đầu lửa đạn để giữ vững
biên cương, lãnh thổ của Tổ quốc.
Trên tinh thần khách quan, khoa học, cầu thị, bài viết
này tiếp cận một sự kiện lịch sử từ góc độ khoa học, tôi hy vọng góp thêm tiếng
nói để làm sao nước nhà giữ được độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và tránh
được chiến tranh.
Hơn ai hết, chúng ta đã đủ thấm thía nỗi đau của chiến
tranh và giá trị của hòa bình. Thiếu đánh giá một cách khoa học, khách
quan và cầu thị về cuộc chiến, hậu quả khôn lường
Có lẽ do tính chất thảm khốc và những hệ lụy to lớn
của cuộc chiến, nên ngay sau khi hai nước chính thức bình thường hóa quan hệ,
Trung Quốc và Việt Nam đã xác định: "khép lại quá khứ, hướng tới tương
lai".
Vì vậy những năm đầu sau bình thường hóa, thực hiện
chủ trương này, cả hai nước hầu như “khép lại”, không nhắc gì đến cuộc chiến
này, chỉ tập trung thúc đẩy các hoạt động hợp tác, hữu nghị.
Đây là cách ứng xử của chúng ta không chỉ với Trung
Quốc, và với cả Hoa Kỳ. Tuy nhiên hiểu như thế nào về việc “khép lại quá khứ”
hay chỉ “gác lại quá khứ” cũng là vấn đề cần được bàn bạc thấu đáo.
Nếu như 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ xâm
lược và thống nhất Tổ quốc đã được đúc kết thành nhiều công trình, bài học, được
tái hiện khá cụ thể trong sách giáo khoa, thì còn 4 cuộc chiến / trận chiến
khác chưa được mổ xẻ để rút ra bài học:
Ngoài cuộc chiến bảo vệ Biên giới phía Bắc 1979-1989
chống Trung Quốc xâm lược, còn cuộc chiến bảo vệ Biên giới Tây Nam chống bọn diệt
chủng Khmer Đỏ;
1 cuộc tấn công do Trung Quốc tính toán tổ chức thực
hiện vào tháng Giêng năm 1974 để xâm chiếm nốt nhóm phía Tây quần đảo Hoàng Sa
của Việt Nam và một cuộc thảm sát để chiếm đoạt một phần quần đảo Trường Sa năm
1988.
Ôn lại các sự kiện lịch sử này với cái nhìn khoa học,
khách quan, cầu thị trên tinh thần tôn trọng sự thật để rút ra những bài học
cho tương lai, làm sao bảo vệ được độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, làm
sao để tránh tối đa nguy cơ nổ ra chiến tranh.
Thiết nghĩ đó chính là việc làm cần thiết và hoàn
toàn phù hợp với chủ trương “gác lại quá khứ” thay vì “khép lại quá khứ” đã từng
tồn tại trong nhận thức và chi phối hành vi ứng xử của chúng ta trong mấy thập
kỷ qua.
Thiết nghĩ đó cũng là những việc hết sức hệ trọng và
cấp bách, khoa học và tiến bộ, vì lợi ích của chính dân tộc Việt Nam cũng như
dân tộc Trung Quốc để tránh vết xe đổ của chiến tranh.
Chỉ có như vậy mới có thể xây dựng tình hữu nghị, hợp
tác lâu dài, hướng tới tương lai.
Lâu nay chính sự khép lại, im lặng đã khiến những vết
thương chưa lành trong dân chúng, trong các cựu chiến binh từ cả hai phía, khi
không được chăm sóc đúng cách sẽ dễ mưng mủ, tác hại khôn lường.
Đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, khi những tranh
chấp phức tạp ở Biển Đông đang leo thang trước các hành động phiêu lưu, quân sự
hóa từ phía Trung Quốc, bóng ma của cuộc chiến năm xưa đang dần trở lại trong
tâm trí nhiều người.
Chính điều này sẽ là những nhân tố tiềm tàng bất ổn
trong lòng xã hội, nó có thể bùng phát thành những diễn biến khó lường như những
mặt trái mà chúng ta chứng kiến, trả giá trong cuộc khủng hoảng giàn khoan 981
Trung Quốc hạ đặt bất hợp pháp vào vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt
Nam năm 2014.
Lòng yêu nước của người dân nếu không được dẫn dắt bởi
chính sự hiểu biết thấu đáo về lịch sử nước nhà, sẽ là nơi nuôi dưỡng mầm mống
cực đoan và bất ổn.
Nhiều người lo, nhiều người phàn nàn về việc chúng
ta chỉ đưa có "11 dòng" vào sách giáo khoa lịch sử về cuộc chiến bảo
vệ Biên giới phía Bắc 1979 - 1989.
Nhưng theo tôi, quan trọng hơn là chúng ta tiếp cận
như thế nào, dạy như thế nào về giai đoạn lịch sử này.
Sách giáo khoa không dạy, thì người dân quan tâm vẫn
có thể tìm đọc trên Internet từ nhiều nguồn khác nhau. Trước những tài liệu thiếu
nguồn kiểm chứng, nhưng lại thừa những miêu tả và từ ngữ thể hiện cảm xúc mạnh,
tác hại của nó thật khó lường.
Không phải ai cũng đủ tỉnh táo để tiếp cận một cách
đa chiều, nhìn nhận một cách khách quan, đánh giá theo hướng rút ra những bài học
để tránh chiến tranh và bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ nếu
các nhà chức trách, đội ngũ trí thức không nhận lãnh lấy trọng trách này.
Là một người nghiên cứu luật pháp quốc tế về biên giới
lãnh thổ, và từng trực tiếp tham gia đàm phán hoạch định biên giới giữa Việt
Nam với Trung Quốc, Campuchia, Lào...chúng tôi cũng có không ít những trải nghiệm,
gặp không ít vấn đề do cách nhận thức của chúng ta về những sự kiện này.
Vì vậy, xin nêu lên một số bài học mà chúng tôi cho
là có thể có ích cho những công trình nghiên cứu, phân tích, đánh giá, tổng hợp
về những sự thật nói trên để vận dụng cho tương lai.
Bài học thứ nhất: tháo ngòi nổ xung đột
![]() |
Nhục nhã ! |
Sự thật về hành động và mức độ dã man của cái gọi là
“phản kích tự vệ” mà Trung Quốc gây ra với Việt Nam năm 1979 - 1989 không thể
biện minh bằng bất cứ lý do nào.
Đó đích thực là một cuộc “xâm lược biên giới”, chứ
không phải là cuộc chiến tranh biên giới, càng không phải là một cuộc “phản
kích tự vệ”.
Tuy nhiên, tại sao nó diễn ra và có cơ hội nào để
tránh chiến tranh hay không là điều chúng ta cần làm rõ.
Hiện tại do phần lớn tài liệu về cuộc chiến hai bên
đều chưa giải mật, nhưng đặt trong bối cảnh địa chính trị khu vực Đông Dương và
cục diện quan hệ quốc tế thời bấy giờ, có thể nhận thấy những cơ hội tháo ngòi
xung đột đã bị bỏ lỡ.
Thứ nhất là cuộc chiến ý thức hệ giữa phe XHCN với
phe TBCN đã dần biến thành cuộc chiến tranh giành ngôi bá chủ giữa 3 siêu cường
Mỹ - Trung - Xô, đã đẩy các nước nhỏ trở thành nạn nhân của các nước lớn.
Việt Nam đã trở thành đối tượng tranh giành ảnh hưởng
gay gắt giữa Trung Quốc và Liên Xô trong cuộc đua trở thành "lãnh tụ cách
mạng toàn cầu", đứng hẳn về bên nào cũng có thể khiến Việt Nam trở thành kẻ
thù của bên còn lại.
Thứ hai, việc Việt Nam tấn công đánh trả các hành động
chiến tranh đánh phá biên giới Tây Nam của bè lũ diệt chủng Khmer Đỏ và sau đó
giúp nhân dân Campuchia loại bỏ bè lũ diệt chủng man rợ ấy là việc làm cần thiết,
chính đáng, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân Campuchia.
Nhưng trong bối cảnh đất nước Chùa Tháp vừa mới
thoát khỏi cơn ác mộng diệt chủng, tàn dư Khmer Đỏ với sự hà hơi tiếp sức của
Trung Quốc vẫn tiếp tục quấy phá, tìm cách lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ…
lực lượng quân tình nguyện Việt Nam buộc phải duy trì sự hiện diện của mình
thêm một thời gian cần thiết.
Chính hoàn cảnh này đã một mặt gây bất lợi vì tạo ra
những hiểu lầm trong dư luận quốc tế và một bộ phận người Khmer, một mặt tạo cớ
để Trung Quốc gây hấn.
Thứ ba, cho dù Trung Quốc thường nói rằng họ theo chủ
nghĩa Mác - Lenin, nhưng thực chất tư tưởng coi mình là "trung tâm thiên hạ",
tham vọng bành trướng xuống Đông Nam Á vẫn âm ỷ trong một bộ phận lãnh đạo cấp
cao nước này qua nhiều thế hệ.
Chính vì thế, mọi động thái của họ trong quan hệ quốc
tế luôn luôn có những tính toán phục vụ cho lợi ích và ý đồ chiến lược của họ
là trên hết.
Chúng ta không bao giờ được quên và phủ nhận những
đóng góp to lớn của Trung Quốc đã giúp Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến. Tuy
nhiên, không phải vì thế mà quên rằng Việt Nam là cửa ngõ là phên dậu chống lại
"phe TBCN" từ phía Nam dưới con mắt của một số chiến lược gia Trung
Quốc.
Việt Nam là nước nhỏ, nhưng lại bị nhiều siêu cường
nhòm ngó. Nếu ứng xử không khéo léo, không tìm cách tháo ngòi nổ xung đột, thì
nguy cơ trở thành nạn nhân của những cuộc chiến tranh xâm lược là điều khó
tránh khỏi.
Trong tình hình hiện nay, khi Biển Đông căng thẳng,
đã có không ít quan điểm cho rằng Việt Nam phải liên minh với nước này, dựa vào
nước kia để chống Trung Quốc.
Nếu điều đó xảy ra, thì một cuộc chiến bảo vệ Biên
giới 1979 - 1989 có nguy cơ lặp lại.
Vì vậy, bên cạnh sự tự lực tự cường, việc đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại là hết sức cần thiết, không liên minh nước
này để chống nước kia là lựa chọn sống còn đối với Việt Nam.
Chỉ có như vậy, chúng ta mới có thể tìm cách đối thoại,
tháo ngòi xung đột. Còn đương nhiên khi “cây muốn lặng mà gió chẳng đừng”, thì
giặc đến nhà đàn bà cũng đánh.
Nghiên cứu về cuộc chiến đấu bảo vệ Biên giới phía Bắc
1979-1989 mà không đặt vào bối cảnh địa chính trị khu vực, quốc tế thời kỳ đó để
tìm cách tháo ngòi nổ xung đột, thì nguy cơ chiến tranh sẽ vẫn còn treo lủng lẳng
trên đầu chúng ta.
Bài học thứ hai: chính sách đối ngoại cần dựa trên luật pháp quốc tế
![]() |
"Không cho chúng nó thoát"! |
Khách quan nhìn lại cách ứng xử của chúng ta trong quan hệ bang giao với các nước, đặc biệt là với Trung Quốc, qua cách nhìn đối với cuộc chiến bảo vệ Biên giới phía Bắc, có thể thấy rõ đã có lúc màu sắc của cảm xúc, tuyên truyền và các mục tiêu chính trị thường lấn lướt các nguyên tắc pháp lý trong bang giao quốc tế.
Có lẽ tình cảm yêu - ghét mãnh liệt đến cực đoan
trong chúng ta đã dẫn đến những phản ứng còn mang nặng cảm xúc hơn lý trí trong
quan hệ bang giao với một nước lớn đầy tham vọng và toan tính như Trung Quốc.
Những năm quan hệ nồng ấm chúng ta đã hết lời ca ngợi,
nhiều khi thái quá.
Nhưng khi “cơm không lành, canh không ngọt”,
"anh cả Liên Xô" và "anh hai Trung Quốc" mâu thuẫn nhau, đẩy
Việt Nam vào thế phải lựa chọn, rồi đến khi mâu thuẫn lợi ích lên đến cao trào,
chúng ta chỉ trích không tiếc lời, thậm chí đưa cả vào những văn kiện chính thức.
Không cuộc chiến nào kéo dài mãi, không mâu thuẫn
nào không có điểm dừng, đến khi bình thường hóa quan hệ, chính chúng ta rơi vào
thế bí vì những tuyên bố giàu cảm xúc, lập trường chính trị ấy.
Thậm chí có những văn kiện chúng ta ban hành gây bất
lợi cho chính chúng ta sau này trong đàm phán phân định biên giới với Trung Quốc
bởi những câu chuyện đẫm mùi tuyên truyền mà thiếu tính khoa học, thiếu tính kiểm
chứng.
Nó gây chia rẽ trong chính nội bộ của ta, và là đề
tài cho các thế lực chính trị chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.
Đó là hạn chế của thời cuộc bởi dấu ấn của cuộc chiến
ý thức hệ suốt mấy chục năm không dễ gì gột rửa. Nhưng nay thế thời đã thay đổi,
quan hệ bang giao giữa các quốc gia là quan hệ giữa nhà nước với nhà nước, dựa
trên luật pháp quốc tế và được thế giới thừa nhận.
Mọi mối quan hệ thân mật về chính trị chỉ có ý nghĩa
tạo môi trường thuận lợi, tạo nhiều kênh đối thoại để giải quyết các tồn tại
cũng như thúc đẩy hợp tác song phương.
Chính trị không thay thế được pháp lý, mà làm nền tảng
cho pháp lý.
Vì vậy, đánh giá lại các sự kiện lịch sử như cuộc
chiến bảo vệ Biên giới phía Bắc 1979-1989, cuộc chiến bảo vệ Biên giới Tây Nam,
cuộc xâm chiếm Hoàng Sa 1974, Trường Sa 1988 rất cần một lăng kính khoa học, một
thái độ khách quan, một cách tiếp cận cầu thị và bình tĩnh.
Mọi đánh giá áp đặt một chiều đều có mặt mạnh của nó
trong những tình huống, hoàn cảnh nhất định để phục vụ một ý đồ nhất định, giúp
đạt mục tiêu nhanh hơn. Nhưng về lâu dài, tác hại của nó lớn hơn rất nhiều, khó
lường hết được.
Trong nội bộ dư luận Việt Nam có không ít quan điểm
băn khoăn, hoài nghi về Hội nghị Thành Đô mà thực chất chỉ là những thỏa thuận
chính trị giữa lãnh đạo hai Đảng để tạo nền tảng cho bình thường hóa quan hệ giữa
hai nước.
Còn mọi văn kiện hợp tác, ký kết giữa Việt Nam và
Trung Quốc chỉ có ý nghĩa pháp lý dưới ánh sáng công pháp quốc tế, nếu nó được
chính thức ký kết và thông qua bởi cơ quan quyền lực nhà nước có thẩm quyền của
hai nước.
Những câu chuyện về thác Bản Giốc, Hữu Nghị Quan,
núi Đất - Hà Giang vẫn âm ỷ trong lòng xã hội Việt Nam cho dù hiệp định phân định
biên giới đã được ký kết sau quá trình đàm phán hết sức nghiêm túc, khách quan
và thượng tôn pháp luật.
Bởi lẽ những tài liệu tuyên truyền của ta trong cuộc
chiến bảo vệ Biên giới 1979 - 1989 có những nội dung không chính xác, nhưng lại
không được giải ảo, giải mật mà xếp vào kho bí mật, nhạy cảm.
Cái thời của phe XHCN với phe TBCN đã qua, cái
"thế giới đại đồng" hay còn được gọi bởi tên mới "cộng đồng
chung vận mệnh" đã được chứng minh là một ảo mộng.
Thực tiễn khu vực và quốc tế hiện nay, nhất là sau
Brexit và bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ cho thấy, chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc
là không thể xóa nhòa. Ngược lại, nó sẽ được củng cố và hoàn thiện trong một
sân chơi toàn cầu được bảo đảm bởi luật pháp quốc tế.
Chính vì vậy, khi đánh giá lại cuộc xâm lăng Biên giới
Việt Nam 1979-1989 mà Trung Quốc tiến hành, cần đặt nó vào khung pháp lý quốc tế
để xác định nguyên nhân, tìm ra bài học thay vì đứng trên lập trường chính trị,
quan điểm chính trị.
Chỉ có như thế mới giúp hai đất nước, hai dân tộc thực
sự hợp tác trên tinh thần “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”.
Đây cũng chính là bài học quan trọng để giúp hai bên
giải quyết các tranh chấp bất đồng trên Biển Đông hiện nay, nhất là chủ quyền
quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, cũng như việc ứng dụng, giải thích UNCLOS 1982,
chứ không phải niềm tin chính trị.
Đây là bài học muôn thủa trong hàng ngàn năm dựng nước,
giữ nước của cha ông ta. Bài học Mỵ Châu - Trọng Thủy cần được thấm nhuần trong
mọi hoạt động bang giao, đối ngoại của Việt Nam với các nước chứ không riêng gì
Trung Quốc.
Chúng ta không phủ nhận vai trò và ý nghĩa của ngoại
lực - sự giúp đỡ từ bạn bè quốc tế trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước trước đây, cũng như việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện
nay.
Nhưng tinh thần tự lực tự cường, đề cao cảnh giác vẫn
phải được đặt lên hàng đầu. Người Mỹ đã từng rút ra bài học mà chính chúng ta
cũng đã từng nếm trải: miếng ăn miễn phí chỉ có trên bẫy chuột!
Trước khi nổ ra cuộc xâm lăng Biên giới phía Bắc
1979-1989, quan hệ Việt - Trung đã liên tục xấu đi và biểu hiện rõ bởi hoạt động
"cắt viện trợ". Thực tiễn ấy cho thấy, mọi viện trợ đều có những tính
toán chiến lược đằng sau nó.
Chúng ta nhận và nhận đến đâu, nhận như thế nào là một
bài toán cần có một lời giải nghiêm túc.
Câu chuyện vay vốn ODA ngày nay cũng vậy, quan trọng
không nằm ở chỗ vay được bao nhiêu tiền, mà là sử dụng đồng vốn vay thế nào cho
hiệu quả nhất, ít thất thoát nhất mà không đánh đổi những lợi ích chiến lược.
Tháng Tư năm nay, Trung Quốc sẽ tổ chức một hội nghị
quốc tế để quảng bá sáng kiến "một vành đai, một con đường" của họ và
mời lãnh đạo nhiều nước tham dự, trong đó có Việt Nam.
Chúng ta nên chủ động tiếp cận trên tinh thần dùng
luật pháp quốc tế soi sáng mục đích, ý nghĩa và cách thức vận hành của dự án
"con đường, vành đai" này.
Những gì có thể hợp tác cùng có lợi thì nên triển
khai, nhưng những gì cần bảo lưu về mặt chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích
quốc gia dân tộc thì không thể không tính đến.
Hợp tác và cạnh tranh đan xen nhau là một xu thế khách
quan của lịch sử hiện đại. Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc hay với các nước khác
đều không nằm ngoài xu thế ấy.
Sẽ có những cuộc chiến không tiếng súng, nhưng tác hại
và hệ lụy của nó không kém gì chiến tranh nếu mất cảnh giác, trông chờ vào những
nguồn vốn giá rẻ đi kèm công nghệ lạc hậu, ô nhiễm môi trường và một đội quân
lao động tay chân tràn qua biên giới đến những địa bàn xung yếu của đất nước để
làm ăn, kết hôn, sinh con đẻ cái.
Những ngày qua, báo chí cũng đã ôn lại sự kiện này
như nén hương tưởng nhớ, tri ân những người ngã xuống và nhắc nhở thế hệ mai
sau: đừng bao giờ “khép lại quá khứ”, ngoảnh mặt với lịch sử, và đừng quên quá
khứ, dù quá khứ ấy có cả những chuyện vui, chuyện buồn.
Người con đất Việt trong hay ngoài nước vẫn hướng về
cuộc chiến vệ quốc vĩ đại bằng nhiều cách khác nhau. Những tiếng nói cần đưa
vào trường học, vào sách giáo khoa bài học cụ thể về cuộc chiến ngày một nhiều.
Cá nhân người viết cũng chung tâm trạng ấy, mong muốn
ấy. Trong khuôn khổ bài viết này, xin không nhắc lại những con số thương vong,
những nỗi đau kéo dài theo năm tháng.
Chỉ xin tổng kết lại một số bài học từ cuộc chiến vệ
quốc vĩ đại mà khốc liệt ấy, nhìn thẳng quá khứ để thấy rõ tương lai và vì vậy,
chỉ có thể “gác lại quá khứ” chứ không được phép “khép lại quá khứ”!
TS Trần Công Trục
Tôi xin share bài này cụ Mõ làng nhé.
Trả lờiXóaNNH: Chưa đọc kỹ bài này, nhưng bước đầu thấy đúng là sản phẩm của một chuyên gia hàng đầu của VN về biên giới, rất đáng trân trọng.
Trả lờiXóaTôi hoàn toàn tán thành quan điểm quan hệ Việt- Trung "phải dựa trên nền tảng công pháp quốc tế", chứ không chỉ là những thỏa thuận bí mật giữa lãnh đạo 2 đảng cầm quyền. Đáng tiếc là những "chuyện" diễn ra trước khi VN hội nhập quốc tế- lấy mốc khi VN gia nhập LHQ năm 1995, chúng ta chưa được coi là 1 thành viên của LHQ để mà mong được "công pháp quốc tế" bảo vệ! Trong khi đó, TQ là ủy viên thường trực HĐBA. Chế độ Khmer Đỏ cũng có ghế tại LHQ! Thế là VN cứ phải chịu cái cảnh bị "thằng anh trong nhà" bịt mồm tẩn cho tối ngày mà chẳng thể kêu ai!
TS Trần Công Trục chắc chắn biết nhiều "tài liệu chưa được giải mật" liên quan đến quan hệ Việt- Trung. Mong ông sống đủ lâu để sau này góp phần "giải mật" những chuyện tăm tối này.
ông này có mặt ngày đó tại BK ( có Bạn Hơangf như Lý ) tham gia họp báo quốc tế lên án đầu tiên bọn tội phạm trung nam hải họ Đặng
Trả lờiXóaTôi vào Facebook của TH, nhưng ko mở được bài này nên phải vào blog. Tôi nghĩ nên để nhiều người đọc và suy nghĩ vì ko phải ai cũng hiểu được như tác giả của bài này. Tôi xin LSQL chia sẻ bài này lên Facebook của tôi.
Trả lờiXóaBài viết thật hay, cảm ơn tác giả đã chia sẻ. Ở đây có ai hiểu về mắt ko ạ? Cho em hỏi ngoài lề tí ạ! mat mot mi co y nghia gi vậy ạ.
Trả lờiXóa