Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 4 tháng 9, 2023

 Hôm nay nhận được tin bạn Nguyễn Ngọc Trâm (Trâm Ngọc) đã qua đời vào hồi 18h50 ngày 3/9/2023 (Tức 29 Tháng 7 Quý Mão, thô 83 tuổi .

Tuần trước (Ngày 26/8/2023), nhân có Lễ kỷ niệm 70 năm Trường "LSQL Dục tài học hiệu" (1953- 2023), mình có ra dự. Bay từ SG ra HN chuyến đầu tiên. 5g khởi hành . 8 giờ đạ có mặt tại số 2 phố Trần Bình Trọng ( CLB Thăng Long ).  Mình đã nêu nguyện vọng với bạn Nữ Hiếu, là sau tiệc liên hoan sẽ tổ chức 1-2 chuyến xe chở 1 số bạn K5 còn có sức khỏe, đi thăm những thày cô và bạn bè K5 đang đau yếu nằm nhà không thể đến Hội trường tham dự. Bàn tính mãi rút gọn chỉ còn 5 bạn tham gia ( Quang Trung, Trung Hải, Thế Long, Nữ Hiếu và cô Hạnh - vợ Duy Khắc). Và chọn 3 địa chỉ : Bạn Nguyên Hân, bạn Công Lý, bạn Phạm Kiên . (Lý do vì thời gian của tôi rất gấp, phải bay về Tp.HCM ngay tối hôm đó. Thực ra trong danh sách người cần đến thăm hàng đầu, chính là bạn Ngọc Trâm. Nhưng xét nhiều ý kiến, các bạn khuyên tôi chỉ nên gửi lởi hỏi thăm Ngọc Trâm qua con ttrai của bạn ấy má thôi. Tôi biết, Ngọc Trâm từ mấy năm nay đã lâm bệnh rất nặng. Đến nỗi trí nhớ cũng không còn . Có đến thăm bạn ấy cũng không nhận ra ai!!!....Các bạn ngoài HN  thỉnh thoảng có tới nhà thăm Ngọc Trâm, nhưng thường là các bạn nữ .

Hôm nay được tin Ngọc Trâm đã qua đời, Thương tiếc một bạn từng chung lớp với mình thời QL Dục tài học hiện và Khoa XH Đaị học Tổng hợp Hà Nội.... mình lục trong kho lưu trữ tư liệu , tìm bản thảo sau cùng  bài viết của Ngọc Trâm ( Bài này Trân gửi và nói nhờ mình đọc sửa giúp để góp vào tập Hồi ký"Ngược dòng ký ức " của K5  (In tháng 4/2017). Đó là hồi ký CHUYỆN CỦA NGỌC TRÂM ( Trang 398)....

CHUYỆN CỦA NGỌC TRÂM


Tôi là Nguyễn Ngọc Trâm, sinh ngày 29/01/1941. Tôi được tập trung đi Trung Quốc từ hè năm 1953,theo đoàn Thanh Hóa. Đoàn tôi có Minh Kim, Ngô Bè (Loan), Huyền, Dương Chí Trọng… Đến Việt Bắc đoàn sáp nhập với đoàn Hà Nội, ở đó tôi chỉ còn nhớ có chị Bái. Sang Lư Sơn tôi học lớp 4, và khi về Quế Lâm tôi cùng với Tiến Hoàn, Bích Ngân, Lệ Thủy… được nhấc lên lớp 5, lớp của chúng ta. Về nước tôi tiếp tục học ở Thanh Hóa, Chu Văn An. Sau sang học Đại học Bắc Kinh, bị ốm, về học tiếp ở khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội. Ra trường, tôi về công tác tại Viện Ngôn ngữ Uỷ ban Khoa học Xã hội và làm việc liên tục ở đấy đến khi nghỉ hưu 12/2001. 
Những năm đầu ra công tác tôi đã gặp khó khăn lớn về sức khỏe, thậm chí suýt nữa bị cho về nghỉ theo chế độ mất sức. Nhưng rồi mọi chuyện khá hơn. Tôi đã cố gắng nhiều trong công việc. Và điều mà tôi hài lòng hơn cả trong những năm tháng đó là mình đã rất yêu nghề, hết lòng vì công việc và làm việc có hiệu quả. Quyển từ điển tiếng Việt của tập thể phòng Từ điển chúng tôi được nhận giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ năm 2005.

Cũng như các bạn, tôi đã có những năm tháng rất đáng nhớ ở Quế Lâm. Hồi đó, tôi là tổ trưởng của tổ nữ bé, gồm Ngọc Trâm, Nguyệt Ánh, Nữ Hiếu, Lệ Tiến, Dục Tú, Yến Nga, Nguyệt Nga, Minh
Kim, Thanh Bình. Chúng tôi nghịch ngợm chẳng kém gì các bạn nam. Đã từng có những trận quyết chiến với các bạn nam trong lớp (đứng đầu là Nguyên Hân), đuổi bắt nhau quanh sân vận động, vườn hoa trước cửa Hiệu bộ… Và kết thúc là thủ lĩnh Nguyệt Nga bị bắt trói, bị “tra tấn dã man” nhưng nhất quyết không khai. Chúng tôi kết luận: thế là chúng mình vẫn thắng. Làm những việc li kì, tình báo cũng là sở thích của chúng tôi. Vào ngày nghỉ, chúng tôi đã lên núi hái hoa rừng, trèo qua cửa sổ phòng anh Quý cắm vào lọ ở bàn. Cho đến bây giờ tôi vẫn không biết anh Quý có đoán ra “thủ phạm” là chúng tôi không, nhưng anh không nói gì, và chúng tôi lấy làm thích thú về “bí mật” đó. Còn
nghịch ngợm như vậy nên bọn tôi ít quan tâm tới chuyện “ném thư”, “bỏ thư” trong lớp. Tuy nhiên không hiểu sao tôi được bạn tin nên đã từng chuyển thư, nhận thư hộ.

Ở Quế Lâm là những chuỗi ngày vui, nhưng tôi cũng gặp một
chuyện buồn. Hôm đó Phương Dung lớp 4 (Dung và tôi đã cùng học ở
Dục anh Viện, Thanh hóa) khoe: mới nhận được thư bố mẹ, biết tin mẹ
Trâm đã lấy chồng. Tôi choáng váng không tin. Nhưng mẹ Dung đã viết
rõ ràng: “…mẹ đi họp có gặp mẹ và bố dượng của Trâm...” Tôi buồn
khóc, tủi thân. Thế là mẹ đã quên cha, đã không còn yêu thương chị em
tôi nữa…! Rồi chị Quế gặp tôi. Chị đã dỗ dành giải thích nhiều, chị bảo:
“Khi lớn lên em sẽ hiểu mẹ, sẽ biết rằng mẹ bao giờ cũng yêu thương
em”. Và đúng là như vậy. Sau này, khi trưởng thành, lúc đã nhiều tuổi,
lúc vĩnh biệt mẹ, tôi càng thấm thía một điều: Trên đời này chỉ có mẹ là
người yêu thương chị em tôi nhất, mẹ dành cho chúng tôi tất cả, chấp
nhận và tha thứ cho chúng tôi tất cả.
Khi học xong lớp 7 chúng ta được về nước thăm gia đình. Trở
lại sau đợt nghỉ, tất cả các bạn đều vui, chuyện trò ríu rít. Lệ Tiến cũng
kể nhiều chuyện nhưng đặc biệt quan tâm tới tôi hơn. Dần dà bạn ấy kể,
về nước lần này bạn mới biết cha đẻ thực của mình. Cha bạn là ông Bùi
Hải Thiệu, và tên khai sinh của Tiến là Bùi Lý Lệ Lan. Cha mẹ Lệ Tiến
lấy nhau khi hoạt động bên Trung Quốc, rồi ông mất bên đó. Sau này về
nước mẹ Tiến xây dựng với ông Trần Lung, lúc đó Lệ Tiến mới 4 tuổi.
Tiến lớn lên trong gia đình đầm ấm, chỉ biết bố Trần Lung, mẹ Lệ Minh
và mình là Trần Lệ Tiến. Sau khi biết chuyện thực của gia đình mình,
tình cảm của Tiến với mẹ, bố Lung và các em không hề thay đổi. Tiến
yêu thương, trân trọng và tự hào về bố Lung, hiểu được những điều bố

làm đều vì Tiến và chị Lệ Tân của Tiến. Chỉ có trong sâu thẳm, nỗi cô
đơn mất cha đôi lúc trào lên, và chúng tôi lại động viên chia sẻ với nhau.
Một lần, khi tập trung họp đoàn viên khối 10 Chu Văn An, Tiến
chỉ một bạn gái đứng xa xa và hỏi tôi: “Mày thấy đứa kia thế nào?” “Ồ,
xinh quá! - tôi thốt lên. - Không, chính xác là dễ thương, tươi, dịu dàng,
mà dáng lại dong dỏng nữa.” Tiến có vẻ bằng lòng: “Đó là Kim Oanh
tao mới quen. Tao sẽ hẹn nó mai mình đến chơi nhé!” Nhà Oanh ở trong
một ngõ nhỏ phố Thụy Khê. Một căn nhà bé, cũ, đồ đạc sơ sài. Chúng
tôi vào chào bà, rồi rủ nhau ra trèo cây ổi, mặc Oanh đang léo nhéo nói
gì trong bếp. Thấy tôi ngơ ngác về cảnh nhà, Tiến thì thầm kể: “Oanh ở
đây với bà nội. Bố Oanh mất đã lâu, mẹ đi bước nữa, hiện đang ở trên
phố. À, còn ông anh ruột của Oanh thì đã lấy vợ và ở chỗ khác. Ảnh
các nhân vật này Oanh dán hết trên tường ấy.” Trời, tôi sửng sốt quá,
sao lại có chuyện trùng hợp lạ lùng vậy! Không, không hẳn chỉ là sự
trùng hợp, đây còn là “tác phẩm” của Tiến, Tiến đã gắn kết ba đứa với
nhau bằng tình thương và sự nhạy cảm của mình. Chúng tôi đồng cảm
với nhau và nhận nhau là ba chị em từ đó. Tính chị lớn Oanh hiền lành,
cởi mở, dễ thông cảm với mọi người. Chị dễ buồn khóc khi lâu không
nhận được thư ông anh cả (Chu Hảo lớp 6), trách anh đi học xa biền
biệt, nhưng chị không buồn ủ rũ mà vẫn sống hồn nhiên. Cô út Tiến là
người có nhiều sáng kiến nhất cho mọi hoạt động chung. Cô quan tâm
và có nhiều thông tin về các bạn khác, luôn nhiệt tình sôi nổi kiểu Quế
Lâm. Còn tôi là cô hai, được chị và em khen học giỏi, hay được hỏi ý
kiến khi có việc vướng mắc; nhưng với những việc thực tế trong xã hội
tôi thấy mình vẫn “tồ tồ”, cũng kiểu Quế Lâm.
Sau khi Dương Nghiệp Chí đi học Trung Quốc về, Chí và Tiến
vẫn chưa thể cưới nhau. Lệ Tiến làm việc ở Bộ Công an, được đào tạo
và chuẩn bị cho công việc quan trọng và tuyệt mật, đòi hỏi về lí lịch
người thân chặt chẽ hơn bình thường rất nhiều. Tiến rất buồn vì đã
không dung hòa được công việc và gia đình; cuối cùng bạn ấy quyết
định chuyển công tác từ Bộ Công an sang Bộ Lâm nghiệp. Họ cưới
nhau năm 1967, sau gần 10 năm yêu nhau.
Ít lâu sau tôi cũng từ sơ tán về Hà Nội tổ chức cưới. Chồng tôi
là anh Nguyễn Duy Quỳnh, công tác ở phòng tổ chức cán bộ trường
Đại học Tổng hợp. Thời chiến tranh, bạn bè người thân li tán cả, điều
kiện vật chất thực khó khăn. Tôi đã cặm cụi thêu được đôi vỏ gối trắng,
nhưng không tìm đâu mua nổi đôi ruột gối. Biết thế, hôm sau Tiến tháo

hai cái ruột gối của mình mang đến: “Của bọn tao đấy…, dùng tạm mấy
ngày chứ ai lại cưới xin mà bầy hầy quá!” Tôi xúc động, vừa thương
bạn vừa thương mình. Thời xưa của chúng ta là như thế, sống đơn giản
thoải mái, hết lòng vì bạn, chẳng có kiêng khem câu nệ gì.
Rồi nửa năm sau tôi phải về Hà Nội khám vì thai sản không bình
thường. Biết Tiến vừa sinh cháu trai mà không đến thăm được, tôi phải
nhập viện ngay. Nằm ở bệnh viện C, ngoài những nỗi đau cơ thể, còn
phải chứng kiến bao nỗi đau đớn về tình cảm, về chuyện chồng con, về
những bất công mà nhiều phụ nữ nông thôn còn đang phải gánh chịu.
Nguyễn Du quả đã rộng lòng biết bao khi ông than hộ chúng tôi: “Đau
đớn thay phận đàn bà!”.
Vào một đêm khuya lắm, tôi tỉnh dậy vì nghe tiếng ồn ào trong
phòng bệnh. Mấy y tá đang đẩy cáng lướt qua giường tôi. Tiếp đó là
những tiếng trao đổi nhỏ: Bệnh nhân Lan… sốt cao…, sau đẻ một
tuần… Tiếng nói nhỏ dần, và người ta lại đẩy cáng ra khỏi phòng. Thế
rồi tôi tỉnh hẳn. Chả lẽ nào lại thế, …cũng đẻ được một tuần, …còn
tên Lan nữa chứ. Không, chắc không phải, Tiến vẫn dùng tên Trần Lệ
Tiến cơ mà, vả lại thiếu gì người đẻ được một tuần! Tôi cố phản bác lại,
nhưng linh tính vẫn mạnh hơn, rồi tôi thức đến sáng. Hỏi biết bệnh nhân
đêm qua nằm ở phòng cấp cứu, tôi tìm sang. Và tên ghi ở đầu giường rõ
rành rành: Bùi Lý Lệ Lan; điều tôi không mong đã tới.
Đánh thức Tiến dậy, chúng tôi trò chuyện với nhau. Tiến nói
nhiều về thằng bé, chỉ lo sốt thế này mất sữa cho bé bú, lo mọi người
chê không biết nuôi con. Tiến còn khoe, khi đưa vợ vào đây Chí lo lắng
ủ rũ lắm, Tiến đã phải động viên: “Dương Chí, dũng cảm lên!...” Tiến
ngáp nhiều, nhưng cố vươn người nhìn xung quanh, cười: “Tao phải
nằm phòng bệnh nặng thế này… khéo không ngoẻo mày ạ!” Tôi biết
tính Tiến hay đùa nhưng vẫn gạt đi: “Vớ vẩn, chỉ sốt thôi mà. Mày có
mệt không, có đói không?” “Tao chỉ buồn ngủ!” Tiến nói xong mắt đã
díp lại. Tôi để bạn ngủ và hứa tí nữa lại sang. Khoảng hơn 10 giờ Oanh
tới nháy tôi ra (Oanh làm việc ở Bệnh viện Việt Đức ngay cạnh), tôi
chỉ chỗ Tiến cho Oanh và trở về phòng khám. Nửa tiếng sau Oanh hốt
hoảng quay lại, nước mắt lưng tròng: “Trâm ơi, tao gọi mãi mà Tiến
không dậy. Bác sĩ đã biết, họ đang cấp cứu”. Chúng tôi lại chạy sang,
Tiến vẫn không tỉnh. Bác sĩ, y tá đứng đầy phòng. Sau đó Dương Chí,
rồi bác Trần Lung tới. Phòng bệnh được dọn để đưa nhiều loại máy móc
vào. Bác sĩ ra vào rất đông, lúc thăm khám, lúc hội chẩn. Thời gian cứ

nhích dần, và niềm hi vọng của mọi người cũng tàn lụi dần. Nhìn những
bóng áo blue trắng đi lại làm việc tôi đã trông chờ, tôi đặt niềm tin vào
họ biết bao: hãy cứu bạn tôi, hãy nghĩ ra cách gì hiệu nghiệm đi! Nhưng
phép mầu đã không xảy ra. Khoảng 8 giờ tối, máy móc ngừng chạy và
được kéo đi, bác sĩ ra về dần, phòng bệnh trở nên vắng lặng, họ cũng
đưa cả Tiến đi mất rồi. Sau khi gặp bác sĩ, bác Lung quay lại an ủi tôi:
“Họ đã làm hết sức cháu ạ. Tiến bị nhiễm trùng máu sau khi sinh, nếu
phát hiện sớm thì còn có cách. Nhưng trường hợp Tiến đã quá muộn, đã
lên não rồi mới vào viện… Bây giờ bác còn một việc rất khó là nói thế
nào với bác gái và các em Tiến đang ở nơi sơ tán đây!”
Lệ Tiến ra đi ở tuổi 27, để lại đứa con thơ mới mấy ngày tuổi,
để lại nỗi tiếc thương vô cùng tận cho tất cả chúng ta. Cũng như tôi,
chắc nhiều bạn không quên được người bạn gái xinh xắn, nhanh nhẹn
và rất chân tình. Với vẻ ngoài lém lỉnh, sôi nổi, hay hài hước, bên trong
lại chứa đựng một trái tim vị tha, đôi khi mềm yếu nữa: Tiến rất thích
chăm sóc, chiều chuộng người thân, sẵn sàng hi sinh để mang lại hạnh
phúc, niềm vui cho người mình yêu quý. Tạm dừng ở đây câu chuyện
về người bạn của chúng ta, câu chuyện “hậu Quế Lâm”, nhưng lại dính
líu nhiều với Quế Lâm.
Hiện chúng ta cùng đang đi trên đoạn sau của cuộc đời. Mỗi
người trong chúng ta không phải đều hoàn hảo, trơn tru, cũng như cuộc
đời có lúc trong, lúc đục. Đến nay tôi đã thích nghi với cuộc sống của
người hưu trí. Ở tuổi này, tôi chỉ còn ba điều quan tâm. Thứ nhất là công
việc mà mình yêu thích. Đến bây giờ tôi vẫn được làm từ điển, được viết
lách về những từ ngữ gặp được trong tiếng Việt, tất nhiên với cường độ
và tốc độ khác trước. Thứ hai là cuộc sống và sự thành đạt của con trai
tôi. Và thứ ba là các bạn Quế Lâm. Tôi có nhiều bạn quen biết từ nhiều
môi trường sống khác, nhưng bạn Quế Lâm vẫn là nơi chia sẻ niềm vui,
nỗi buồn nhiều hơn cả. Có chuyện gì bận tâm, lo lắng, hay vui vẻ nữa
là tôi tìm gọi ngay và “trút” cho Nguyệt Ánh, Thanh Bình hay Thanh
Mai, Nữ Hiếu,… và lòng lại vơi đi, nhẹ nhàng. Mong sao lâu lâu lại gặp
nhau, cùng hát và nhớ lại một thời đáng nhớ của chúng ta./. Hết

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét