(Cảm ơn Vũ Thu Giang đã giới thiệu bài viết này)
Calathau: Lần đầu tiên tác giả gọi TT Obama là 1 chính khách lớn và người bạn lớn của Việt Nam - (Cùng với cựu TT Bill Clinton). Tôi rất đồng ý với đánh giá này !
Tuần này, tổng thống Obama thăm chính
thức Việt Nam (23-25/5/2016). Đây là chuyến thăm đầu tiên và cũng là cuối cùng
với cương vị tổng thống (trong 8 năm cầm quyền). Chuyến thăm này quan trọng, vào
một thời điểm quan trọng, có thể so sánh với chuyến thăm của Bill Clinton, với
bài diễn văn nổi tiếng (17/11/2000). Nếu Bill Clinton đã đi vào lịch sử với
quyết định bình thường hóa với Việt Nam (11/7/1995), thì hôm nay Barack Obama
cũng đi vào lịch sử với quyết định bỏ cấm vận vũ khí, để hoàn tất quá trình đó
(23/5/2016).
Mỹ-Việt: Trở lại
tương lai?
Bill Clinton còn quay lại Việt nam
nhiều lần, với cương vị cựu tổng thống và chủ tịch quỹ Clinton. Gần đây nhất là
khi Bill Clinton tới Việt Nam để dự lễ kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan hệ
(2/7/2015), và quan trọng hơn là để chuẩn bị và “hộ tống” Tổng Bí thư Nguyễn
phú Trọng sang thăm Mỹ (6-10/7/2015). Hillary Clinton cũng đã thăm Việt Nam
nhiều lần, với cương vị phu nhân tổng thống hoặc ngoại trưởng. Ông bà Clinton
đã để lại một di sản lớn và những dấu ấn khó quên trong lịch sử quan hệ
Mỹ-Việt.
Vậy sau chuyến thăm này, tổng thống
Obama sẽ để lại di sản gì cho quan hệ Mỹ-Việt? Có lẽ trong bối cảnh hiện nay,
vấn đề then chốt nhất là bỏ hoàn toàn cấm vận bán vũ khí sát thương cho Việt
Nam. Điều đó không những có ý nghĩa hoàn tất quá trình bình thường hóa quan hệ
hai nước, mà còn có tác dụng thúc đẩy chiến lược xoay trục (hay tái cân bằng
lực lượng) của Mỹ tại Đông Á, vì lợi ích sống còn của hai nước tại Biển Đông.
Trong nhiệm kỳ hai, Tổng thống Obama đã
làm được hai việc lớn: Đó là ký thỏa thuận hạt nhân với Iran và bình thường hóa
quan hệ với Cuba. Hôm nay, quyết định bỏ nốt cấm vận vũ khí cho Việt Nam có lẽ
là một sự kiện quan trọng không kém, để biến Việt Nam thành đối tác chiến lược,
và hiện thực hóa chủ trương xoay trục (tái cân bằng lực lượng). Chỉ còn mấy
tháng nữa để Obama củng cố vị trí lịch sử của mình tại Châu Á, có thể sánh vai
với Bill Clinton, như một chính khách lớn và người bạn lớn của Việt Nam.
Nhận xét về quan hệ Mỹ-Việt 40 năm qua,
Patrick Cronin, giám đốc Chương trình An ninh Châu Á-Thái Bình Dương (tại
CNAS), cho rằng trong 20 năm hậu chiến (1975-1995), quan hệ Mỹ-Việt đã chuyển
đổi từ cựu thù thành bình thường hóa. Trong 20 năm tiếp theo (1995-2015), Mỹ-
Việt đã chuyển đổi từ bình thường hóa thành đối tác chiến lược “trên thực tế”
(de facto). Vậy trong 10-20 năm tới, quan hệ hai nước là gì, nếu không phải là
đối tác chiến lược “thực sự”. Nhưng xét cho cùng thì hai nước cũng chỉ “trở lại
tương lai”.
Trong quá khứ không xa lắm, hai nước đã
là đồng minh chống phát xít Nhật tại Đông Á. Lịch sử hay lặp lại như một trò
chơi tốn kém. Năm 1945, Mỹ đã cử nhóm “Con Nai” (Deer Team) gồm 18 người do
thiếu tá Allison Thomas chỉ huy, nhảy dù xuống chiến khu Việt Bắc giúp Việt
Minh huấn luyện lực lượng quân sự còn non trẻ. Đại tá Archimedes Patti
(1913-1998), tác giả cuốn “Why VietNam”, lúc đó đại diện cho OSS (Office of
Strategic Services) là tiền thân của CIA, đã đến Hà Nội vào năm 1945 khi Hồ Chí
Minh lập chính phủ lâm thời và viết Tuyên ngôn Độc lập. Ông Patti đã giúp cụ Hồ
sửa Tuyên ngôn Độc lập (giống của Mỹ).
Lúc đó (1945-1946) Hồ Chí Minh đã tìm
mọi cách để bang giao với Mỹ, giống như ông Bùi Viện (1839-1878) đã cố gắng làm
trong thế kỷ trước, nhưng không thành (vì những trớ trêu của lịch sử). Theo tư
liệu lịch sử, ông Bùi Viện đã hai lần cất công sang tận Washington DC, gặp được
tổng thống Ulysses Grant (1873-1875) để cầu viện chống Pháp, nhưng đã bị “nhỡ
tàu”. Năm 1978, cơ hội bình thường hóa quan hệ hai nước sau chiến tranh Việt
Nam cũng bị “nhỡ tàu” (cho đến năm 1995). Nhìn lại, cái giá phải trả cho việc
“nhỡ tàu” nhiều lần, làm mất cơ hội hợp tác chiến lược, là quá lớn đối với cả
hai nước. Vậy phải làm thế nào để khi “trở lại tương lai” hai nước không bị
“nhỡ tàu” một lần nữa?
Robert McNamara (cựu bộ trưởng quốc
phòng dưới thời John Kennedy) đã thừa nhận sai lầm trong cuốn sách về chiến
tranh Việt Nam (In Retrospect: The Tragedy and Lessons of Vietnam, McNamara,
Vintage Books, 1996) và ông ấy đã đến Hà Nội gặp đại tướng Võ Nguyên Giáp để lý
giải và hòa giải quá khứ. Muộn còn hơn không. Họ đã cố gắng thanh lý di sản của
một cuộc chiến tranh vô nghĩa (do nhầm lẫn).
Ông Phạm Xuân Ẩn (“điệp viên hoàn hảo”)
tuy chống Mỹ vì nhiệm vụ của một người yêu nước, nhưng cũng yêu nước Mỹ (với
vai trò ký giả của Time magazine). Ông Ẩn là một nghịch lý của một cuộc chiến
không đáng có. Đến cuối đời, ông ấy vẫn mong hai nước trở thành bạn và đồng
minh. Con ông ấy (Phạm Xuân Hoàng Ân) đã phiên dịch cho chủ tịch nước Trương
Tấn Sang và tổng thống Obama trong chuyến thăm Mỹ (24-26/7/2014).
Obama: Tiếng kèn ngập
ngừng?
Theo Alexander Vuving (Vũ Hồng Lâm),
Việt Nam đang tách xa dần Trung Quốc, nhưng “không quá xa”, và đang nhích lại
gần Mỹ, nhưng “không quá gần”. Nói cách khác, quan hệ Mỹ-Việt tuy đã sang trang
(sau chuyến thăm Mỹ của TBT Nguyễn Phú Trọng), nhưng vẫn như “tiếng kèn ngập
ngừng”. Việt Nam vẫn tiếp tục đi dây để giữ cân bằng quan hệ với Trung Quốc và
Mỹ. Hai vấn đề then chốt đang cản trở quan hệ đối tác chiến lược với Mỹ (là
nhân quyền và căn cứ Cam Ranh) vẫn chưa được tháo gỡ.
Trong khi đó, nhiều người cho rằng
Chính quyền Obama đã mắc vào cái bẫy duy trì hòa bình bằng mọi giá và sẽ phải
trả giá đắt cho chủ trương này. Thái độ này làm cho Bắc Kinh càng thêm cứng rắn
và hành động táo bạo hơn để thay đổi nguyên trạng Biển Đông, biến những gì họ
đã chiếm được thành việc đã rồi. Những gì Washington đã làm, gồm những lời
tuyên bố suông (rhetoric) và các cuộc tuần tra FONOP “vô hại” (innocent
passage) không làm Bắc Kinh chùn bước trong kế hoạch lấn chiếm và quân sự hóa
Biển Đông.
Chuyến tuần tra FONOP thứ ba sau khi bị
hoãn, đã được USS William Lawrence triển khai (10/5/2016) đi qua đá Chữ Thập
(Fiery Cross Reef) chứ không qua đá Vành Khăn (Mischief Reef) và vẫn theo hình
thức “đi qua vô hại” (innocent passage). Tuy quyết định này có thể liên quan
đến tính toán thời điểm Tòa án Trọng tài Quốc tế ra phán quyết, nó phản ánh tâm
lý sợ rủi ro (risk-averse) của tổng thống Obama, muốn tránh mọi tình huống gây
ra khủng hoảng với Trung Quốc, trong mấy tháng cuối cùng của nhiệm kỳ tổng
thống. Nhưng càng tránh rủi ro thì rủi ro càng tìm đến, với nguy cơ cao hơn.
FONOP theo kiểu “đi qua vô hại” không có tác dụng răn đe Trung Quốc, và làm
đồng minh và đối tác bất an.
Việc trì hoãn bỏ cấm vận vũ khí sát
thương bằng cách gắn nó với điều kiện cải thiện nhân quyền như một kiểu trao
đổi (trade-off) không phải là cách làm hiệu quả, thậm chí còn phản tác dụng
(counter-productive). Trong khi Trung Quốc nhảy “Rock n Roll” thì Mỹ-Việt vẫn
nhảy “Slow Waltz”, theo “tiếng kèn ngập ngừng”. Trong khi Trung Quốc ráo riết
quân sự hóa các đảo họ lấn chiếm và bồi đắp tại Biển Đông (xây dựng các sân bay
quân sự và quân cảng, lắp đặt các trạm ra đa và tên lửa hiện đại) biến thành
các cứ điểm mạnh, thì Mỹ-Việt vẫn sa vào trò chơi “mèo vờn chuột”, tiếp tục mà
cả để đổi chác nhân quyền lấy vũ khí (human rights for arms). Việc này chỉ có
lợi cho phái cực đoan và bảo thủ tại Bắc Kinh (và Hà Nội), đồng thời làm vô
hiệu hóa chiến lược xoay trục của Mỹ và đồng minh.
Đòi hỏi Việt Nam tôn trọng và cải thiện
nhân quyền là cần thiết. Nhưng chấp nhận việc thả tù chính trị nhỏ giọt để đánh
đổi lấy bỏ cấm vận vũ khí từng phần, sẽ dẫn đến tiến thoái lưỡng nan (như
“catch 22”). Nó chỉ kéo dài sự ngược đãi giới bất đồng chính kiến, và đẩy hàng
vạn ngư dân vô tội đến chỗ tuyệt vọng, vì họ bị tàu thuyền Trung Quốc xua đuổi
không cho đánh cá tại vùng biển của mình, trong khi bờ biển Miền Trung bị nhiễm
độc nặng trong một thảm họa môi trường lớn. Chẳng lẽ đây không phải là vấn đề
nhân quyền?
Muốn ngăn chặn Trung Quốc bành trướng
tại Biển Đông mà lại sợ làm họ mất lòng thì thật vô lý. Trong khi Trung Quốc
bành trướng, thách thức Mỹ và bắt nạt Việt Nam, tại sao họ không sợ làm mất
lòng Mỹ hay Việt Nam? Tại sao Mỹ tuần tra FONOP tại Biển Đông lại phải áp dụng
innocent passage? (sợ Trung Quốc phản ứng?). Tại sao Viêt Nam không dám kiện
Trung Quốc ra tòa án quốc tế như Philippines (sợ Trung Quốc tức giận?).
Về quan hệ Việt-Trung, Patrick Cronin
nhận xét, Việt Nam rất thận trọng không muốn vượt qua “vạch đỏ” (red lines) với
Trung Quốc, và Mỹ tôn trọng điều này. Cronin nói “chúng tôi không tìm kiếm căn
cứ quân sự”. Trong khi đó Jonathan London cho rằng lãnh đạo Việt Nam không muốn
làm “đứt cầu chì” (circuit breaker), để Trung Quốc có lý do phản ứng quá mạnh…
Theo Carl Thayer, lý do chính Việt Nam muốn bỏ cấm vận vũ khí là ý nghĩa chính
trị tượng trưng, chứ không phải là nhu cầu quân sự cấp bách.
Trong khi đó, Alexandere Vuving lập
luận rằng muốn hóa giải sự lưỡng lự của giới quân sự Việt Nam, “Mỹ phải chứng
tỏ thiện chí bằng cách bỏ hẳn cấm vận vũ khí”… Làm như vậy sẽ “mở rộng cửa” để
hợp tác quân sự chặt chẽ hơn, và để thực hiện bước tiếp theo là tiếp cận căn cứ
Cam Ranh. Nếu thường xuyên tiếp cận căn cứ Cam Ranh, “Mỹ sẽ có nhiều lợi thế để
duy trì cân bằng lực lượng với Trung Quốc”. Có lẽ, Mỹ cần Việt Nam vì ba lý do
chính: (1) VN có vị trí chiến lược quan trọng, (2) VN có căn cứ chiến lược Cam
Ranh và quân đội thiện chiến, (3) VN có truyền thống chống Trung Quốc.
John McCain & John Kerry: Không thể thiếu?
Không thể hòa giải và bình thường hóa
quan hệ hai nước nếu thiếu vai trò dẫn đầu của TNS John McCain (Chủ tịch Tiểu
ban Quân lực Thượng viện) và John Kerry (Ngoại trưởng), cũng như hàng ngàn cựu
binh khác (như đại sứ Pete Peterson). Họ đang chiến đấu dũng cảm vì hòa bình và
hòa giải, cũng như khi họ chiến đấu dũng cảm trong chiến tranh. Di sản của tổng
thống Obama (và Clinton) trong quan hệ Mỹ-Việt không thể tách rời vai trò của
John Kerry và John McCain, cùng những người khác. Dù trước đây là thương binh
hay tù binh, họ không trở thành “tù binh của quá khứ” (prisoner of the past).
Trong chuyến thăm Việt Nam lần này, cùng với Tổng thống Obama, Ngoại trưởng
John Kerry sẽ dự lễ khởi công dự án Đại học Fulbright. John Kerry là người bảo
trợ cho dự án này ngay từ đầu.
Không phải ngẫu nhiên mà TNS John
McCain phát biểu, “Đã đến lúc chúng ta phải chuyển hướng, trong chính sách của
Mỹ tại Châu Á-Thái Bình Dương… Mỹ cần hành động mạnh mẽ hơn là những cử chỉ
tượng trưng tại Biển Đông” (Americda Needs More than Symbolic Gestures in the
South China Sea, John McCain, Financial Times, April 12, 2016). John McCain có
vai trò chính trong việc vận động bỏ một phần cấm vận vũ khí (năm 2014). McCain
lập luận rằng không nên hạn chế việc bán công nghệ quốc phòng cho Việt Nam để
đảm bảo an ninh hàng hải, nhưng việc chuyển giao các chủng loại vũ khí khác cần
phải xét “từng trường hợp một” (case by case) và gắn với tiến bộ về nhân quyền.
Ngày 18/5/2016, trước chuyến thăm Việt
Nam của Tổng thống Obama, McCain đã khẳng định chuyến thăm của Obama là một
bước tiến tích cực nữa trong quan hệ hai nước. Theo McCain, Việt Nam đang nổi
lên như “một đối tác quan trọng” của Mỹ tại khu vực, cam kết bảo đảm các nguyên
tắc của trật tự châu Á – TBD, trong đó có tự do hàng hải, tự do thương mại và
giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế. McCain cho rằng đã đến lúc Mỹ bỏ
hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí đối với Việt Nam, một tồn đọng của quá khứ đang
cản trở quan hệ hợp tác quân sự. McCain nói, “Chúng ta không thể yêu cầu đối
tác đóng góp nhiều hơn trong khi vẫn thực hiện các biện pháp trực tiếp hạn chế
khả năng đóng góp của họ”.
Cũng như TNS John McCain, Bộ trưởng
Quốc phòng Ash Carter trong một cuộc điều trần tại Thượng viện (28/4/2016) đã
lên tiếng ủng hộ việc bỏ hoàn toàn cấm vận vũ khí sát thương cho Việt Nam.
Những người ủng hộ quan điểm này cho rằng Việt Nam đã có tiến bộ về vấn đề nhân
quyền (so với Saudi Arabia hay Egypt). Bỏ cấm vận vũ khí sẽ buộc Việt Nam thực
hiện cam kết về nhân quyền (giống như thực hiện cam kết về TPP). Nếu Việt Nam
vi phạm cam kết thì Mỹ có thể tạm dừng việc chuyển giao vũ khí, và trừng phạt
kinh tế những trường hợp vi phạm nghiêm trọng các cam kết như đã thỏa thuận.
Tổng thống Hillary Clinton: Déjà vu?
Chỉ còn mấy tháng nữa, (từ 1/2017),
Việt Nam (và Trung Quốc) phải làm quen với tổng thống Hillary Clinton (hay tổng
thống Donald Trump?). Ngoài hai ứng cử viên đại diện cho hai đảng, không còn ai
khác. Dù ai sẽ sẽ là chủ Nhà trắng, thì cũng phải tiếp thu di sản của ông
Obama, để đối phó với Trung Quốc tại Biển Đông.
Mặc dù thua Barack Obama trong cuộc đua
vào Nhà trắng (cách đây 8 năm) Hillary Clinton đã nhận lời Obama làm ngoại
trưởng. Với vai trò ngoại trưởng, Hillary Clinton là kiến trúc sư của chính
sách xoay trục (hay tái cân bằng) của Mỹ. Nay ra tranh cử tổng thống lần thứ
hai, Hillary Clinton có cơ hội lớn để thắng cử, trở thành tổng thống nữ đầu
tiên trong lịch sử nước Mỹ. Với kinh nghiệm của đệ nhất phu nhân và ngoại
trưởng, Hillary Clinton sẽ là một “tổng thống tuyệt vời” (excellent president)
như nhận xét của Barack Obama.
Mặc dù Bill Clinton mắc vào bê bối tình
dục (trong nhiệm kỳ đầu), nhưng Hillary đã giúp Bill Clinton vượt qua thử thách
và trở thành cặp đôi quyền lực (partners in power). Bill Clinton không thể
thành công trong hai nhiệm kỳ, nếu thiếu vai trò của Hillary (và ngược lại).
Barack Obama và Hillary Clinton từ đối thủ tranh cử (rivals in election) đã trở
thành đối tác trên chính trường (partners in politics). Đây là lần đầu tiên một
tổng thống đắc cử đã mời đối thủ vừa bị thua cuộc làm ngoại trưởng (và Hillary
Clinton đã nhận lời).
Tuy tính cách và tầm nhìn có thể khác
nhau, nhưng Barack Obama và Hillary Clinton đã “cộng tác lành mạnh” trong chiến
lược “xoay trục sang Châu Á” (mà cả hai đều muốn nhận là tác giả). Họ “nhất trí
nhiều hơn là bất đồng”, khác biệt “về phong cách và bản năng, chứ không phải
bản chất và nguyên tắc”. Nhưng khi cần phải tranh thủ cử tri, thì Hillary
Clinton sẵn sàng né tránh hoặc thay đổi lập trường đối với những vấn đề nhạy
cảm (như TPP). Bản năng chính trị thực dụng đó có thể làm nhiều người thất
vọng, vì Hillary Clinton “luôn ứng xử như một ứng cử viên”. (“Alter Ego”,
Landler, Random house, 2016).
Trong khi con đường dẫn đến Nhà trắng
của Hillary Clinton không bằng phẳng, vì đa số cử tri Mỹ đã chán những nhân vật
trong giới quyền lực (establishment), thì Donald Trump cũng mất dần lợi thế ban
đầu. Trong khi Hillary Clinton được sự ủng hộ của những nhân vật hàng đầu như
Bill Clinton và Barack Obama, thì Donald Trump không được sự ủng hộ của lãnh đạo
đảng Cộng Hòa. Trong khi Barack Obama bị ám ảnh bởi vai trò lịch sử, thì
Hillary Clinton tính toán mọi nước cờ thực dụng để tiến thân. Obama hiểu rằng
di sản của mình phụ thuộc nhiều vào thắng lợi của Hillary Clinton. Vì vậy, họ
vừa là đối thủ, vừa là đồng đội.
Trước đây, cử tri Mỹ đã từng tỏ thái độ
khi họ ủng hộ “Tea Party”, nhưng dường như tiếng nói của họ chưa được để ý. Vì
vậy, lần này họ bỏ phiếu cho Donal Trump trong vòng tranh cử sơ bộ (primary
election) như một cảnh cáo mạnh mẽ lãnh đạo đảng Cộng hòa (cũng như Dân chủ).
Nhưng Donald Trump không thể coi sự ủng hộ của cử tri là mặc nhiên và vô điều
kiện. Trước đây cử tri Mỹ đã không bầu ứng cử viên độc lập Ross Perot thì nay
chưa chắc họ bầu Donald Trump làm tổng thống? Có lẽ đến phút chót, họ mới quyết
định xem họ có muốn những rủi ro mà tổng thống Donald Trump có thể đem lại cho
nước Mỹ.
Bài diễn văn về chính sách đối ngoại
duy nhất của Donald Trump lấy cảm hứng từ trong quá khứ khi nước Mỹ theo đuổi
chủ nghĩa biệt lập (isolationism), chỉ biết đến Mỹ (American first). Quan điểm
cổ lỗ sĩ này (của thế kỷ 19) cản trở chứ không thúc đẩy quá trình hòa bình và
thịnh vượng trong nước cũng như ngoài nước. Trong thế giới ngày càng phức tạp,
nước nào nhiều quan hệ liên kết nhất sẽ là nước mạnh nhất. Nhưng Donald Trump
hoài nghi giá trị của các liên minh. Vì vậy, chính sách của Donald Trump sẽ làm
cho các liên minh của Mỹ suy yếu và không thể làm cho nước Mỹ vĩ đại được.
(Joseph Nye).
Tham khảo
1. “How Clinton and Obama tried to run
the world while trying to manage each other”, Carlos Lozada, Washington Post,
April 29, 2016. Book review of “Alter Ego”, Mark Landler, Random House, 2016
2. “How Trump Would Weaken America”,
Joseph Nye, Project Syndicate, May 10, 2016
3. “US Likely to Lift Ban on Arms Sales to Vietnam”,
Dan De Luce & Keith Johnson, Foreign Policy, May 9, 2016
4. “Two Myths About the United States
and Vietnam: Setting the record straight”, Jonathan Zimmerman, Foreign Affairs,
May 19, 2016
5. “America needs more than symbolic
gestures in the South China Sea”, John McCain, Financial Times, April 12, 2016
6. “How America Picks Its Next Move in
the South China Sea”, Zack Cooper & Bonnie Glaser, Asia Times, May 11, 2016
NQD. 23/5/2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét