“Lợi ích nhóm” và “Chủ nghĩa 
tư bản thân hữu” - cảnh báo nguy cơ
tư bản thân hữu” - cảnh báo nguy cơ
 
    TS. Vũ Ngọc Hoàng
14:56' 2/6/2015
Lợi ích chính 
đáng (của một người, một nhóm) là lợi ích phù hợp với lợi ích chung của 
quốc gia, dân tộc, góp phần và bổ trợ cho lợi ích chung; không mâu 
thuẫn, không gây thiệt hại cho lợi ích chung. Lợi ích chính đáng luôn là
 mục tiêu và động lực đối với hoạt động của con người, cần được tôn 
trọng, bảo vệ và khuyến khích. Quên điều này, không quan tâm đến lợi ích
 chính đáng của con người, ngăn cản các lợi ích chính đáng ấy, thì sự 
lãnh đạo và quản lý xã hội không thể thành công, mà trước sau gì nhất 
định cũng sẽ thất bại.
Ngược lại, “lợi ích nhóm” (theo nghĩa tiêu cực) thì mâu thuẫn với lợi ích chung của quốc gia, dân tộc; gây hại cho lợi ích chung, cho cộng đồng, làm suy yếu và gây tổn thất nghiêm trọng đối với lợi ích chung. “Lợi ích nhóm” là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc hình thành các “nhóm lợi ích”. Đặc điểm của các “nhóm lợi ích” là có sự kết hợp cùng mục tiêu lợi ích, cùng hành động, cùng phân chia lợi ích, giữa những người có nhiều tiền với những người có quyền lực trong nhà nước và trong đảng cầm quyền. Có tiền chuyển hóa thành có quyền lực. Có quyền lực chuyển hóa thành có tiền. Người có tiền sẽ có quyền lực và người có quyền lực sẽ có tiền. Họ cùng nhau hành động để có quyền lực và có tiền ngày càng nhiều hơn. Đồng tiền cộng với quyền lực tạo thành sức mạnh khống chế, lũng đoạn tổ chức và xã hội. Nhận thức sự quan trọng của thông tin, “nhóm lợi ích” còn móc nối, “kết nạp”, kết hợp với một số nhóm truyền thông không lành mạnh để tác động chi phối dư luận theo hướng có lợi cho “nhóm lợi ích” và xuyên tạc vu cáo những người, những doanh nghiệp không cùng nhóm để tranh quyền lực và lợi ích. “Lợi ích nhóm” sẽ kéo theo và song hành với tham vọng quyền lực và tham vọng tiền bạc.
Ngược lại, “lợi ích nhóm” (theo nghĩa tiêu cực) thì mâu thuẫn với lợi ích chung của quốc gia, dân tộc; gây hại cho lợi ích chung, cho cộng đồng, làm suy yếu và gây tổn thất nghiêm trọng đối với lợi ích chung. “Lợi ích nhóm” là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc hình thành các “nhóm lợi ích”. Đặc điểm của các “nhóm lợi ích” là có sự kết hợp cùng mục tiêu lợi ích, cùng hành động, cùng phân chia lợi ích, giữa những người có nhiều tiền với những người có quyền lực trong nhà nước và trong đảng cầm quyền. Có tiền chuyển hóa thành có quyền lực. Có quyền lực chuyển hóa thành có tiền. Người có tiền sẽ có quyền lực và người có quyền lực sẽ có tiền. Họ cùng nhau hành động để có quyền lực và có tiền ngày càng nhiều hơn. Đồng tiền cộng với quyền lực tạo thành sức mạnh khống chế, lũng đoạn tổ chức và xã hội. Nhận thức sự quan trọng của thông tin, “nhóm lợi ích” còn móc nối, “kết nạp”, kết hợp với một số nhóm truyền thông không lành mạnh để tác động chi phối dư luận theo hướng có lợi cho “nhóm lợi ích” và xuyên tạc vu cáo những người, những doanh nghiệp không cùng nhóm để tranh quyền lực và lợi ích. “Lợi ích nhóm” sẽ kéo theo và song hành với tham vọng quyền lực và tham vọng tiền bạc.
Ở
 nước ta, trong lãnh đạo, người đầu tiên công khai hóa và nêu lên sự cần
 thiết phải đấu tranh với “lợi ích nhóm” là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
 (phát biểu tại Hội nghị Trung ương 3 khóa XI). Sau Tổng Bí thư, một vài
 đồng chí lãnh đạo khác của Đảng và Nhà nước cũng có nói đến, mặc dù chỉ
 mới thoáng qua và nói chung, chưa có chỉ đạo gì quyết liệt trong việc 
ngăn ngừa, phòng chống “lợi ích nhóm”. Trong giới khoa học của Việt Nam 
đã có một số nghiên cứu, chưa nhiều và mới ở dạng lý thuyết chung, chưa 
gắn với thực tế tình hình nước ta. Các nhà nghiên cứu trên thế giới đã 
có nhiều tài liệu nghiên cứu vấn đề này, gắn với quá trình phát triển 
của một số quốc gia. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI của Đảng 
Cộng sản Việt Nam “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã xác định nhiệm vụ quan trọng phải đấu tranh chống “lợi ích nhóm”.
Hiện
 nay, “lợi ích nhóm” và hoạt động của “nhóm lợi ích” ở nước ta đã và 
đang diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực quan trọng. Đó là trong quản lý 
doanh nghiệp nhà nước, quản lý dự án đầu tư, nhất là đầu tư công; trong 
quản lý ngân sách, thuế, quản lý ngân hàng - tín dụng; trong quản lý các
 nguồn vốn và chương trình đầu tư về xã hội, trong quản lý tài sản, đất 
đai, bất động sản, tài nguyên khoáng sản, xuất nhập khẩu; trong công tác
 cán bộ, quản lý biên chế; trong quản lý việc cấp các loại giấy phép; 
kể cả trong các vụ án, trong tham mưu về chủ trương, chính sách và trong
 điều hành. Đi sâu vào nghiên cứu các vụ tiêu cực, tham nhũng có tổ 
chức, các vụ, việc mà dư luận có nhiều ý kiến thì sẽ có nhiều thông tin 
cụ thể về tình hình “lợi ích nhóm” ở Việt Nam. Tức là tình hình xấu đã 
lan rộng, khá phổ biến và khá ngang nhiên, nghiêm trọng đến mức báo 
động.
“Lợi
 ích nhóm” và “nhóm lợi ích” có tác hại gì? Trước nhất, nó làm cho đất 
nước bị tổn thất các nguồn lực và giảm hiệu quả đầu tư, bị kìm hãm không
 thể phát triển nhanh, thậm chí không thể phát triển bình thường, mất 
sức sống, nền kinh tế sẽ bị khiếm khuyết, dị tật, kinh tế “ngầm”, thị 
trường “ảo”, chụp giật, hoang dã, khống chế và “thanh toán” lẫn nhau để 
giành độc quyền, làm hỏng môi trường phát triển lành mạnh và bình đẳng 
cho tất cả các doanh nghiệp. Hầu hết các nước bị “bẫy thu nhập trung 
bình” kéo dài nhiều thập niên, thậm chí kéo dài hàng thế kỷ, loay hoay 
mãi, lùng bùng mãi, không làm sao thoát ra được để trở thành một quốc 
gia phát triển là do “lợi ích nhóm” - nguyên nhân trực tiếp và hàng đầu.
 Với sự chi phối của các “nhóm lợi ích”, nguồn lực quốc gia bị phân bổ 
và sử dụng không vì lợi ích chung của quốc gia, mà nhằm hướng phục vụ 
cho “lợi ích nhóm”; việc bố trí đầu tư, sắp xếp dự án và kể cả ban hành 
chính sách, điều hành xử lý công việc cũng vậy. 
Nước
 ta sau mấy chục năm công nghiệp hóa, đến nay năng suất lao động xã hội 
vẫn thấp (vào loại thấp nhất khu vực Đông Á), hiệu quả đầu tư kém, nợ 
nần nhiều mà chưa rõ trả bằng cách nào, khi mà hiệu quả đầu tư (sử dụng 
nguồn vay ấy) còn kém; thu nhập thấp, sản phẩm công nghiệp xuất khẩu 
hầu như không có, các chương trình nội địa hóa không thành công, chủ yếu
 là làm thuê và cho thuê mặt bằng, nền kinh tế Việt Nam đang rơi vào 
“bẫy thu nhập trung bình thấp”. Nhìn lại nguyên nhân các nước bị “bẫy 
thu nhập trung bình” và nhìn lại tình hình nền kinh tế của ta thì thật 
đáng lo ngại.
Hậu
 quả thứ hai do “nhóm lợi ích” gây ra là nhất định sẽ chệch hướng khỏi 
mục tiêu xã hội chủ nghĩa chân chính (và cũng xa lạ với chủ nghĩa tư bản
 hiện đại), đất nước đi theo một con đường khác, sang “chủ nghĩa tư 
bản thân hữu”, đó là con đường không có tiền đồ và rất nguy hiểm, 
không có tự do và dân chủ (vì bị “nhóm lợi ích” độc quyền về kinh tế và 
chính trị thâu tóm, lũng đoạn), để lại hậu quả lâu dài mà dân tộc phải 
gánh chịu. Chúng ta mong muốn xây dựng một xã hội trên nền tảng của các 
giá trị nhân cách thì “nhóm lợi ích” lại thúc đẩy đồng tiền cộng với 
quyền lực chiếm địa vị thống trị. Thực chất “nhóm lợi ích” là đồng tiền 
(tư bản) chi phối quyền lực, trực tiếp tham gia giành và chiếm giữ quyền
 lực, làm cho quyền lực không còn là của nhân dân, cũng có nghĩa là 
chệch khỏi mục tiêu xã hội chủ nghĩa (chân chính). “Lợi ích nhóm” và
 “nhóm lợi ích” có từ rất sớm, ít nhất là từ buổi đầu của thời kỳ phong 
kiến; nhưng sang thời kỳ tư bản chủ nghĩa thì nó phát triển và diễn 
biến phức tạp hơn, kể cả trình độ, quy mô và tính chất. Trong Chủ nghĩa 
tư bản “hoang dã”, “mông muội”, các “nhóm lợi ích” hoạt động phổ biến, 
công khai, tích lũy và tập trung tư bản bằng mọi thủ đoạn, kể cả bạo 
lực, giết người. 
Nhân
 đây, trước khi nói đến hậu quả thứ ba do “nhóm lợi ích” gây ra, xin nói
 rõ hơn về “chủ nghĩa tư bản thân hữu”. Suốt mấy trăm năm nay, qua 
quá trình cạnh tranh, qua đấu tranh xã hội, chịu sự tác động của các quy
 luật khách quan về kinh tế và xã hội, chủ nghĩa tư bản buộc phải 
liên tục điều chỉnh. Ngày nay, chủ nghĩa tư bản hiện đại đã có những 
điều chỉnh rất đáng ghi nhận; tạo ra nhiều thành tựu và một số nước đạt 
trình độ phát triển cao, tính chất xã hội hóa sản xuất cao hơn, đang dần
 dần từng bước tạo ra các nhân tố mới của xã hội tương lai (xã hội xã 
hội chủ nghĩa). Đồng thời với quá trình tiến hóa tự nhiên ấy, trong 
thực tiễn thế giới tư bản còn xuất hiện một khuynh hướng khác, một 
khuynh hướng không lành mạnh, không bình thường, một khuynh hướng tha 
hóa, đó là “chủ nghĩa tư bản thân hữu”, một loại hình nguy hại cho sự
 phát triển của các quốc gia. Nước nào rơi vào “chủ nghĩa tư bản thân
 hữu” thì không ngóc đầu lên được. “Chủ nghĩa tư bản thân hữu” thực 
chất là sự bành trướng, biến dạng, biến tướng, sự thoái hóa cao độ của 
“nhóm lợi ích” gây ra. Đây là một loại hình rất lạc hậu, khác xa so với 
chủ nghĩa tư bản hiện đại (chủ nghĩa tư bản hiện đại có nhiều mặt 
tiến bộ, mà chúng ta cần nghiên cứu để học tập kinh nghiệm) và tất nhiên
 là càng xa lạ với chủ nghĩa xã hội văn minh.
“Chủ
 nghĩa tư bản thân hữu” còn có các cách gọi khác nhau, là “chủ nghĩa
 tư bản lợi ích”, “chủ nghĩa tư bản bè phái”, “chủ nghĩa tư bản 
bè cánh”, “chủ nghĩa tư bản lũng đoạn”,... “Chủ nghĩa tư bản thân 
hữu” không phải là một giai đoạn của chủ nghĩa tư bản, mà là một hiện
 tượng, một khuyết tật, một sự tha hóa của chủ nghĩa tư bản. Đây là 
loại hình “phát triển” mà trong đó các doanh nghiệp dựa vào ưu thế về 
mối quan hệ với những người có quyền lực để tạo ra nguồn thu tài chính 
cho cá nhân và đơn vị mình. Các doanh nghiệp này tập trung đầu tư vào 
“quan hệ”, vào “quan chức” để từ đó mà dùng quyền lực tạo ra lợi nhuận 
siêu ngạch. Đặc trưng của “chủ nghĩa tư bản thân hữu” là có sự cấu 
kết, xâm nhập lẫn nhau giữa nhóm đặc quyền kinh tế và nhóm đặc quyền 
chính trị, người kinh doanh cũng đầu tư vào quyền lực và người có quyền 
lực cũng tham gia kinh doanh, làm quan chức để làm giàu, họ cùng nhau 
bóc lột “mềm” toàn xã hội, bóc lột cả dân tộc, họ thâu tóm các nguồn tài
 chính, của cải và thâu tóm quyền lực chính trị, biến bộ máy nhà nước 
thành công cụ của một nhóm người (nhân danh nhà nước và đảng cầm quyền) 
thực hiện độc quyền kinh tế kết hợp với độc quyền chính trị. Nói họ thực
 hiện bóc lột “mềm” là vì không có hình thức tổ chức sản xuất - kinh 
doanh cụ thể để trực tiếp bóc lột giá trị thặng dư của lao động, sự bóc 
lột của họ tinh vi hơn, nhưng tai hại hơn, gây hậu quả rất nghiêm trọng.
 Sự bóc lột ấy thực hiện thông qua các dự án, các chương trình đầu tư; 
thông qua các cơ chế, chính sách (không phục vụ cho toàn xã hội mà phục 
vụ cho một nhóm người) và thông qua cách điều hành, cách quản lý mập mờ,
 không minh bạch, gây tiêu cực, tham nhũng... Họ thu lợi thông qua các 
công ty “sân sau”, công ty con, công ty cháu, công ty nhánh của gia 
đình, của “cánh hữu”. Nó ra đời trong (và gắn với) chủ nghĩa tư bản 
“man rợ”, chủ nghĩa tư bản “dã man”, chứ không phải chủ nghĩa tư 
bản văn minh. 
Rất
 đáng lưu ý là, “chủ nghĩa tư bản thân hữu” không chỉ có trong xã hội
 tư bản (yếu kém và tha hóa) mà còn có trong các xã hội khác, ở các nước
 mới bắt đầu vận hành nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường, khi 
mà ở đó “lợi ích nhóm”, “nhóm lợi ích”, “lợi ích bè phái”, “tính thân 
hữu vì lợi ích” đang nổi lên và hoành hành; khi mà đảng cầm quyền cùng 
nhà nước do nó lãnh đạo bị suy thoái về đạo đức, tham nhũng trở nên phổ 
biến và pháp luật không được tuân thủ trong sự quản lý đất nước, quản lý
 xã hội (tức là trình độ quản trị quốc gia yếu kém). Thực tiễn thế giới 
cho thấy, “chủ nghĩa tư bản thân hữu” kìm hãm sự phát triển của quốc 
gia, làm cho đất nước rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” hàng thế kỷ 
không ra được, làm băng hoại đạo đức xã hội (do lệch chuẩn giá trị); làm
 méo mó, biến dạng các chủ trương, đường lối; gây nên các khuyết tật của
 nền kinh tế và của xã hội, để hậu quả lâu dài. “Chủ nghĩa tư bản 
thân hữu” xuất phát từ các nguyên nhân, nguồn gốc: “Lợi ích nhóm” tiêu 
cực, các dạng ma-phi-a, tham nhũng có tổ chức, sự suy thoái đạo đức của 
cán bộ có chức quyền, không có cơ chế kiểm soát quyền lực, để quyền lực 
tha hóa và không có cơ chế tốt để nhân dân làm chủ và có quyền lực thật 
sự, trình độ và năng lực quản trị quốc gia yếu kém, luật pháp còn nhiều 
kẽ hở và việc chấp hành pháp luật không nghiêm, bảo kê, bao che và dung 
túng cho các sai phạm. Ở đâu và khi nào mà “nhóm lợi ích” không bị ngăn 
chặn có hiệu lực, hiệu quả, mà để nó phát triển mạnh, lan tràn, hoành 
hành, vai trò của Nhà nước lành mạnh bị vô hiệu hóa, thì ở đó, tất yếu 
sẽ kéo theo “chủ nghĩa tư bản thân hữu” xuất hiện và tồn tại, không 
thể tránh được, không thể khác được, dù có muốn hay không.
Lâu
 nay Đảng ta đã nhiều lần lưu ý nguy cơ chệch hướng. Nếu chệch hướng thì
 sẽ chệch đi đâu? Chắc không thể trở lại chế độ phong kiến, vì trình độ 
phát triển đã vượt qua. Cũng không thể chệch sang chủ nghĩa tư bản 
phát triển văn minh, vì trình độ phát triển của nước ta chưa đạt đến, và
 nếu vậy thì có ý kiến cho rằng cũng không đáng sợ, bởi chúng ta sẽ gần 
hơn với chủ nghĩa xã hội. Khả năng lớn nhất, hiện hữu và cũng đáng 
sợ nhất, nguy hiểm nhất là chệch hướng sang “chủ nghĩa tư bản thân 
hữu”, con đường nguy hại cho sự phát triển của quốc gia, dân tộc, đồng 
thời cũng nguy hại cho chế độ chính trị - xã hội.
Trở
 lại hậu quả của “nhóm lợi ích”. Hậu quả thứ ba do “nhóm lợi ích” gây ra
 là sự suy đồi về văn hóa, đạo đức xã hội do hệ giá trị bị đảo lộn (đồng
 tiền và quyền lực chiếm vị trí trung tâm và cao nhất, trong khi nhân 
cách bị đẩy sang bên cạnh và xuống hàng thứ yếu) và do tha hóa quyền lực
 (tác nhân mạnh nhất). Việc phân hóa giàu - nghèo sẽ ngày càng lớn, tạo 
ra bất bình đẳng và mâu thuẫn xã hội. Hỏng văn hóa và gây ra mâu thuẫn 
xã hội thì hậu quả khôn lường, thâm sâu và lan tỏa rộng trên tất cả các 
lĩnh vực của đời sống xã hội, ảnh hưởng đến nền tảng xã hội và sức mạnh 
nội sinh của dân tộc.
Hậu
 quả thứ tư do “nhóm lợi ích” gây ra là làm lẫn lộn thật - giả, đúng - 
sai, khác nhau giữa lời nói và việc làm, đường lối đúng không vào được 
cuộc sống...; làm mất lòng tin của nhân dân đối với đảng cầm quyền và 
đối với nhà nước, tức là làm hỏng nền tảng chính trị, dẫn đến mất ổn 
định chính trị, mất sức mạnh của một quốc gia, và từ đó các thế lực xâm 
lăng từ bên ngoài có thể lợi dụng thời cơ để xâm lấn, chèn ép, dẫn đến 
nguy cơ mất độc lập, thậm chí là mất nước.
Hậu
 quả thứ năm do “nhóm lợi ích” gây ra là chính sách sử dụng cán bộ méo 
mó, phát triển nạn “chạy chức”, “chạy quyền”, sắp xếp cán bộ trên cơ sở 
“quan hệ, tiền tệ, hậu duệ”, chứ không phải sử dụng người có tài đức, 
làm hư hỏng đội ngũ cán bộ; là sự phát triển, sự gia tăng các hoạt động 
bè phái, mất đoàn kết nội bộ, phá vỡ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động
 của đảng cầm quyền, từ đó dẫn đến đảng cầm quyền mất vai trò lãnh đạo, 
tan rã hoặc bị “nhóm lợi ích” thâu tóm làm thay đổi hoàn toàn bản chất, 
không còn là đảng phục vụ nhân dân, và nhà nước cũng hư hỏng, biến chất,
 không còn là nhà nước của nhân dân, mà thành bộ máy cai trị, tham nhũng
 và bóc lột nhân dân, từ đó, nòng cốt chính trị đổ vỡ, bất ổn định chính
 trị từ bên trong.
Tình
 hình “nhóm lợi ích” ở Việt Nam đã đến mức độ nào? đang và sẽ đi về đâu?
 Như chúng ta đã biết, trước đây trong lịch sử nhiều lần các triều đại 
phong kiến Việt Nam bị sụp đổ, kể cả có lúc đất nước bị chia cắt là do 
“nhóm lợi ích” gây nên. Ngày nay, tuy chưa có các công trình nghiên cứu 
cấp quốc gia một cách thật đầy đủ và khoa học về “lợi ích nhóm ở Việt 
Nam”, nhưng qua thông tin, qua dư luận xã hội, qua nghiên cứu của một số
 chuyên gia và cảm nhận của nhiều người, thì tình hình “lợi ích nhóm” đã
 khá nghiêm trọng, tương đối phổ biến, ở cấp nào cũng có, cấp cao hơn 
thì mức độ càng nặng hơn, ở lĩnh vực nào cũng có, kể cả ở những nơi mà 
xưa nay trong tiềm thức xã hội thường cho rằng đó là nơi luôn trang 
nghiêm, trong sạch. “Lợi ích nhóm” cũng chính là một kiểu tham nhũng 
nghiêm trọng nhất, tham nhũng có tổ chức. Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã 
có nhiều cố gắng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, 
nhưng thực tế xã hội vẫn diễn ra một tình hình rất đáng lo ngại là ở 
nước ta đang có nguy cơ chuyển biến dần dần sang “chủ nghĩa tư bản 
thân hữu”, do hoạt động của “nhóm lợi ích” gây nên. Cũng có ý kiến cho 
rằng nước ta đã rơi vào “chủ nghĩa tư bản thân hữu” rồi, đã vào sâu 
lắm rồi (?). Ở các nước, việc quản lý nhà nước và việc điều hành kinh tế
 tách biệt rành mạch, và ở họ doanh nghiệp nhà nước cũng ít hơn ta. Còn ở
 ta, với đặc điểm cơ quan nhà nước vừa quản lý về mặt nhà nước, vừa trực
 tiếp điều hành kinh tế, doanh nghiệp nhà nước nhiều, lại yếu kém trong 
quản lý, không ít trường hợp đằng sau cái vỏ doanh nghiệp nhà nước là tư
 nhân núp bóng, vì vậy, đề phòng “lợi ích nhóm” ở Việt Nam còn phức tạp 
hơn các nước khác, nếu không đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả. Đây là 
nguy cơ lớn nhất đang hiện hữu dần, đe dọa sự phát triển lành mạnh của 
đất nước và sự tồn vong của chế độ theo định hướng xã hội chủ nghĩa 
(lành mạnh). Nguy cơ này bao trùm, đáng lo hơn bất kỳ sự đe dọa nào, tác
 động chi phối chính, làm trầm trọng các nguy cơ khác, tạo điều kiện cho
 các nguy cơ khác phát triển và gây tác hại. Đây là điểm lớn nhất, cốt 
lõi nhất của cuộc đấu tranh về quan điểm lập trường; là trọng tâm trong 
chống “tự diễn biến”. Nếu Đảng và Nhà nước ta không ngăn chặn được hoạt 
động của “nhóm lợi ích”, để nó tiếp tục phát triển, dẫn đến lũng đoạn 
ngày càng lớn hơn thì sự phát triển của đất nước bị nguy khốn và chế độ 
chính trị cũng biến chất, cũng thay đổi theo hướng xấu, chắc chắn không 
còn là con đường xã hội chủ nghĩa chân chính nữa, mà sẽ là nơi phát 
triển “chủ nghĩa tư bản thân hữu”, mong muốn của hàng triệu đảng viên
 cộng sản và nhân dân đã chiến đấu, hy sinh xương máu sẽ trở nên xa vời 
và vô vọng, mong muốn thiết tha của Bác Hồ cũng không thực hiện được, 
Đảng chân chính sẽ không còn và Nhà nước sẽ biến chất, dân tộc sẽ bị bóc
 lột, bị tước đoạt quyền lực và tài sản của cải, chế độ xã hội sẽ là một
 chế độ không có dân chủ và tự do, không có bình đẳng. Lúc này, hơn lúc 
nào hết, các cấp ủy và toàn Đảng phải nhận thức rõ nguy cơ và quyết tâm 
bảo vệ quyền lợi dân tộc, thành quả cách mạng và bảo vệ chính Đảng ta, 
không để Đảng bị “nhóm lợi ích” và “chủ nghĩa tư bản thân hữu” thao 
túng, làm hư hỏng, biến chất, dẫn đến đổ vỡ.
Chống
 “lợi ích nhóm” là công việc hết sức khó khăn, phức tạp, vì không rõ 
“chiến tuyến”, thường ở trong trạng thái lẫn lộn trắng đen, trong nó có 
ta và trong ta có nó, vừa là ta lại vừa là nó. Ngoài việc cần nhận thức 
đầy đủ và sâu sắc tình hình và nguy cơ, cần thảo luận rộng rãi trong 
Đảng và trên công luận. Đảng và cả hệ thống chính trị phải kiên quyết 
đấu tranh chống “lợi ích nhóm”, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, hết sức 
hệ trọng và cấp bách; tập thể lãnh đạo từ cấp cao nhất cần có quyết tâm 
chính trị và thật sự gương mẫu trong việc đấu tranh chống “lợi ích 
nhóm”, sử dụng tất cả các biện pháp có thể; khẩn trương nghiên cứu ban 
hành bổ sung, điều chỉnh các cơ chế kiểm soát quyền lực (bằng quyền lực 
nhà nước, quyền lực của nhân dân và công luận); cơ chế thực thi dân chủ 
rộng rãi, minh bạch thông tin và quy định rõ trách nhiệm giải trình, 
điều trần; tạo hành lang pháp lý chặt chẽ cho báo chí vào cuộc, cho nhân
 dân thực hiện quyền tham chính; đổi mới căn bản công tác cán bộ, thực 
hiện tranh cử trước nhân dân đối với các chức danh bầu cử và thi tuyển 
công khai đối với các chức vụ quản lý, đồng thời thực hiện cơ chế giám 
sát hoạt động, kết quả công việc, thi hành việc bãi miễn và thay đổi vị 
trí công tác của cán bộ khi xét thấy không có lợi cho cuộc đấu tranh 
chống “lợi ích nhóm”./.

Vì sơ ý trong thao tác trên bàn máy vi tính nên 2 comments của cụ Nguyễn Ngọc Hùng và Trương Trác đã bị xóa khỏi trang này. Thành thật cáo lỗi cùng 2 Bloggers và bạn đọc trong ngoài Lòng LSQL.
Trả lờiXóaTôi đã thức để đọc hết bài này của tác giả Vũ Ngọc Hoàng. Bài viết rất hay, rất trí tuệ và rất tâm huyết. Tác giả đã phân tích đầy đủ mọi tác hại của "Chủ nghĩa tư bản thân hữu" hay "Lợi ích nhóm" Vậy không biết liệu Đảng ta có đẩy lùi được nguy cơ này không ?
Trả lờiXóa