BƯỚC CHUẨN BỊ HÀNH TRANG VÀO ĐỜI
Đỗ Long
Ngày 28 tháng 8 năm 1955, 25 học sinh từ Quế Lâm và 25 học sinh từ khu học xá Nam Ninh được chọn đi Bắc Kinh học tiếng Nga để sau này về nước phục vụ sự nghiệp khôi phục và phát triển kinh tế. Tất cả chúng tôi đều có kết quả học tập khá giỏi, nghiêm túc chấp hành kỷ luật của nhà trường nên sẵn sàng nhận quyết định của lãnh đạo với tinh thần “đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc cần”. Nhờ sự giáo dục của cha mẹ và các thầy cô, chúng tôi đều vui vẻ chấp hành ý kiến của tổ chức, không hề đề đạt bất cứ một đề nghị nào khác. Chỉ trong 2 năm học ở Lư Sơn, Quế Lâm hay Nam Ninh chúng tôi đã nhiều lần được nghe những lời răn dạy của Bác Hồ: “Học để làm người, làm cách mạng”, “học để phụng sự Tổ quốc”, “phục vụ nhân dân”. Thấm nhuần những tư tưởng ấy, giá trị chân chính của đạo làm người đã sớm được xác định, lý tưởng cuộc đời của mỗi người đã được kiểm chứng ngay từ những ngày đó.
Sau
2 năm học chúng tôi đã nắm được những kiến thức cơ bản của tiếng Nga hiện đại. Hầu
hết anh chị em chúng tôi đều hoàn thành xuất sắc toàn bộ chương trình học tập bắt
buộc và không một ai bị trách cứ về ý thức tổ chức kỷ luật. Sau khi Bác Hồ đi
Liên Xô trở về, Nguời đã nghỉ tại Bắc Kinh vài ngày. Đại sứ quán đã bố trí cho
chúng tôi được gặp riêng Bác. Đồng chí đại sứ cũng đề nghị cho chúng tôi được
đi Nga để học một số chuyên ngành khác. Sau mấy phút suy nghĩ, Bác đã không nhất
trí với đề nghị nêu trên với lý do nhà nước ta rất cần người biết tiếng Nga giỏi
để phục vụ công tác đối ngoại và các công việc khác. Chúng tôi chấp hành nghiêm
túc ý kiến chỉ đạo của Bác và tiếp tục cần mẫn học tập.
Những
giảng viên trực tiếp dạy tiếng Nga cho chúng tôi là các giáo sư, tiến sỹ và một
số phu nhân của các chuyên gia Liên Xô khi đó đang công tác ở một số lĩnh vực
khác ở Bắc Kinh. Việc học tiếng Nga như nghe, nói, đọc, viết, dịch, anh chị em
chúng tôi đều đạt những thành tích khả quan. Các môn khác như “triết học”, “chính
trị kinh tế học” và “lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc”… chúng tôi đều đạt diểm
khá giỏi vì các thầy cô đã nhiều năm có kinh nghiệm giảng dạy các lĩnh vực tri
thức này. Tuy nhiên, cũng gặp khó khăn khác như phải mất thời gian gấp đôi cho
việc dịch thuật từ tiếng Trung sang tiếng Việt và sách vở, tài liệu bằng tiếng
mẹ đẻ lại không có. May thay, có anh Hồ Sỹ Bằng - người thầy của chúng tôi và anh
Đặng Bảo Cường – một Hoa kiều rất giỏi tiếng Việt được chúng tôi quý mến như một
người anh thân thiết - thường giúp giải thích rõ hơn những điều khó hiểu mà các
thầy cô giảng trên lớp.
Được
học văn học Nga, văn học Xô Viết vả Ngôn ngữ học – với chúng tôi – là một điều bổ
ích và lý thú. Các tác giả, tác phẩm kinh điển của văn học Nga, văn học Xô Viết
đều được thầy Grigôrêvich Xecgây Caplencô phân tích, giảng giải kỹ lưỡng và thấu
đáo. Những đỉnh cao của thơ Nga như Pushkin, Lécmantốv, Êxênhin, Krưrốv… đều được
thầy lý giải rõ ràng và dễ hiểu. Chẳng hạn, tác phẩm nổi tiếng của Mácxim Gorki
viết về “Bài ca Chim báo bão”đã được thầy nhiều lần đọc đi đọc lại đến mức
chúng tôi cũng thuộc. M. Gorki đã dùng phụ âm “R” tựa như tiếng sấm để nói lên
xã hội Nga lúc đó đang rung chuyển trong các đêm hôm trước khi nổ ra cuộc Cách
mạng Tháng Mười! Thầy Caplencô – một Viện Sỹ thông tấn - đã để lại trong chúng
tôi nhiều ấn tượng sâu sắc không thể nào quên.
Lãnh
đạo nhà trường và các thầy cô giáo Trung Quốc cũng quan tâm, chăm sóc chúng
tôi, thuờng xuyên lo lắng cho học tập và sinh hoạt của từng người. Vừa đến Bắc
Kinh vào đầu tháng 9 thì ngày 1 tháng 10 nhân dịp Quốc khánh của nuớc bạn, tất
cả chúng tôi đều được nhận giấy mời đứng trên lễ đài phía trái Thiên An Môn để
xem duyệt binh và diễu hành. Khẩu phần ăn của chúng tôi bao giờ cũng được cung
cấp đầy đủ và tươi ngon, kể cả những khi nước bạn gặp khó khăn về luơng thực, thực
phẩm. Vị Hiệu trưởng Dương Tích Trù, bà Tế Bình- Bí thư Đảng ủy, bà Triệu Huy –
chủ nhiệm khoa tiếng Nga… luôn đến hỏi thăm tình hình sức khỏe, học tập, tu dưỡng,
sách báo, văn nghệ, giải trí, thể dục thể thao… của anh chị em chúng tôi.
Một sự quan tâm chăm sóc từ phía bạn
đối với chúng tôi còn đậm nét cho đến bây giờ là sau khi nhận được lời đề nghị
của Đại sứ quán ta, Học viện Nga ngữ và Đại học Bắc Kinh đã đáp ứng ngay nguyện
vọng chính đáng của tất cả chúng tôi. Đó là, để bù đắp những thiếu hụt về tri
thức khoa học xã hội, hai nhà trường đã đồng ý cử thầy Nguyễn Văn Tu – chuyên
gia Đông Phương học sang dạy về văn sử địa trong 2 năm đầu. Nhờ vậy, chúng tôi
đã ít gặp khó khăn trong công tác sau này. Đại sứ quán ta mà đaị diện là anh Phạm
Bình – Công sứ, anh Trần Cao Thành – Bí thư thứ nhất, anh Lê Bá Cáp - Bí thư thứ
hai, thường xuyên chăm sóc, thăm hỏi chúng tôi. Các anh bố trí cho chúng tôi được
gặp Bác, gặp đồng chí Trường Chinh, đồng chí Lê Duẩn và nhiều bác khác là cán bộ
cấp cao của Đảng, Nhà nước và Quân đội. Những lần gặp ấy đã để laị trong lòng mỗi
nguời những ấn tượng và suy nghĩ sâu sắc.
Những
tình cảm chân tình của các anh chị y tá, của cụ già 4 năm dòng nấu nướng cho
chúng tôi ăn, khi chia tay lấy áo choàng trắng lau nước mắt… mãi vẫn còn là những
kỷ niệm đẹp kể cả khi chúng tôi không còn hồn nhiên như lúc trên vai còn mang một
góc cờ của Tổ Quốc! Đối với chúng tôi, những lời căn dặn quý báu của các bác,
các chú cũng như các cuộc đi du lịch Đại Liên, Thanh Đảo trong 2 kỳ nghỉ hè năm
1956, 1957 mà Học Viện Nga ngữ đã sắp xếp cho sinh viên Việt Nam trong khi kinh
phí của trường còn rất hạn hẹp… sẽ không thể phai mờ trong tâm trí mỗi người.
Chúng
tôi cũng không thể quên những cuộc vận động xã hội trong đời sống chính trị của
nước bạn: “chống phái hữu”, “công xã nhân dân”, “toàn dân làm gang thép”, “đại
tiến vọt”… Chính chúng tôi đã từng gõ chiêng, gõ trống, từng lấy vung nồi, gậy
gộc đuổi chim sẻ trong chiến dịch “Diệt tứ hại”. Cũng chính chúng tôi đã từng
thấy những hàng cây khẳng khiu, trụi lá đến chết, khi không còn lũ chim sẻ diệt
loài sâu bọ đang nhăm nhe nuốt hết màu xanh của đất trời. Mặc dù vậy, chúng tôi
không thể quên ơn nhân dân Trung Quốc vĩ đại và những người con ưu tú của họ. Chúng
tôi đã trưởng thành, đã hiểu thế nào là quy luật và khi đã là quy luật thì nó tồn
tại một cách tất yếu, phổ biến và khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con
người. Chẳng lẽ phép biện chứng duy vật – cả trong tự nhiên, trong xã hội và trong
tư duy con người – lại có thể bị lãng quên ư?
Sau
5 năm công tác tại các cơ quan thuộc nhiều lĩnh vực không ít anh chị em tranh
thủ tự học và học đại học chính quy nhằm nâng cao trình độ học vấn, tri thức
chuyên môn nghiệp vụ và đã lấy bằng đại học thứ hai. Một số bạn đã xung phong
gia nhập quân đội và trở thành sỹ quan chỉ huy chống chiến tranh phá hoại của
quân thù. Anh Xuân Thúy đã dũng cảm hy sinh khi làm nhiệm vụ trên chiến hạm.
Anh Thế Tâm đã vào sinh ra tử trong Tổng tiến công, nổi dậy mùa xuân năm 1968 tại
Huế. Anh Đức Tấn bị thương tật suốt đời khi điều khiển tên lửa bắn gục máy bay
Mỹ. Anh Vi Ngọc Huy đã xông pha nơi tuyến lửa Quảng Trị để quay được những thước
phim tài liệu vô cùng quý giá, có một không hai. Trong lĩnh vực kinh doanh, anh
Lê Minh Ngọc được báo chí nước ngoài vinh danh là một trong những nhà “tư sản đỏ”.
Trong nhiều lĩnh vực khác nhau, anh chị em học Nga ngữ Bắc Kinh đã được phân
công nhận những nhiệm vụ quản lý tương đương Thứ trưởng. Một số anh đã trở
thành Đại sứ, Tổng lãnh sự, Cục trưởng, Phó Cục trưởng, Viện trưởng, Phó Viện
trưởng với học vị học hàm xứng đáng… Dù đi đâu hay đảm trách bất cứ công việc
gì, dù cấp trên hay cấp dưới, tất cả anh chị em chúng tôi đều có quyền tự hào về
những cống hiến tuy nhỏ bé nhưng hết mình cho sự nghiệp cách mạng của đất nước.
Tất cả chúng tôi không hổ thẹn trước sự quan tâm giáo dục của Đảng, của Bác Hồ,
của cha mẹ, trước những tấm gương hy sinh quên mình của các chiến sỹ ngoài tiền
tuyến cũng như ở hậu phương.
Đỗ
Long
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét