Những gì diễn ra tại Côn Minh (Kunming, 14/6) đã biến Hội
nghị Ngoại trưởng ASEAN-China thành một sự kiện bất bình thường với một
“thông cáo vịt què” (lame duck communique), dù là vịt Bắc Kinh hay vịt
ASEAN. Nếu không muốn gọi hội nghị này là thất bại thì cũng không thể
coi là thắng lợi. Dù Trung Quốc có ngăn cản được một tuyên bố chung
ASEAN (như tại Phnom Penh năm 2012) thì cũng không thể ngăn cản được xu
hướng “thoát Trung” trong cộng đồng ASEAN vốn bị phân hóa. Hãy thử giải
mã những uẩn khúc tại Côn Minh để làm sáng tỏ bức tranh ASEAN-China,
trong thời điểm nhạy cảm hiện nay.
Bối cảnh trước Hội nghi Côn Minh
Hội nghị Côn Minh diễn ra vào lúc Tòa án Trọng tài Quốc tế
(PCA) sắp ra phán quyết (dự kiến 7/7/2016) theo đơn kiện của
Philippines. Có nhiều khả năng Philippines sẽ thắng kiện, làm Trung Quốc
rất lo ngại, tìm mọi cách đối phó. Bên cạnh việc lăm le xây lắp hạ tầng
quân sự tại Scaborough Shoal thành một cứ điểm mạnh, Trung Quốc ráo
riết vận động các nước ủng hộ. Tuy Trung Quốc ngạo mạn tuyên bố không
thừa nhận phán quyết của PCA, nhưng thực ra họ rất lo ngại bị cộng đồng
quốc tế cô lập tại Biển Đông. Theo CSIS, Trung Quốc tuyên bố có 60 nước
ủng hộ lập trường của họ, nhưng thực tế chỉ có 8 nước (Afghanistan,
Gambia, Kenya, Niger, Sudan, Togo, Vanuatu, Lesotho), và năm nước đã
thẳng thừng bác bỏ, làm Trung Quốc mất mặt (Poland, Slovenia, Bosnia,
Herzegovania, Cambodia, Fiji).
Chuyến thăm Việt Nam (và Nhật) của Tổng thống Obama là một sự
kiện quan trọng. Tuyên bố Mỹ bỏ hoàn toàn cấm vận vũ khí đánh dấu một
bước ngoặt, hoàn tất quá trình bình thường hóa, đồng thời thúc đẩy quan
hệ đối tác chiến lược Mỹ-Việt. Điều này chắc chắn làm Trung Quốc đau
đầu. Sau đó, Thủ tướng Việt Nam được mời dự họp mở rộng Thượng đỉnh G7
tại Nhật (26-27/5). Đây là dịp để G7 tăng cường “đoàn kết quốc tế về
Biển Đông”, và Việt-Nhật tăng cường hợp tác quốc phòng và kinh tế, bao
gồm sáng kiến “kết nối Mekong với Nhật Bản”. Tiếp theo Tuyên Bố chung
của Hội nghị Ngoại trưởng G7 về an ninh Biển Đông (4/2016) các nhà lãnh
đạo G7 đã ra “Tuyên bố chung Ise-Shima” (27/5) về an ninh Biển Đông và
Biển Hoa Đông, nhằm đảm bảo tự do hàng hải và giải quyết tranh chấp bằng
biện pháp hòa bình theo luật pháp quốc tế, để kiềm chế sự trỗi dậy hung
hăng của Trung Quốc.
Tại Đối thoại An ninh Khu vực “Shangi-La 15” (Singapore,
3-5/6/2016) Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ash Carter (và TNS John McCain) đã
đến dự và chỉ trích mạnh mẽ hành động quân sự hóa Biển Đông của Trung
Quốc. Mỹ kêu gọi Trung Quốc tôn trọng phán quyết của Tòa án Trọng tài
Quốc tế (PCA) và cảnh báo nếu Trung Quốc tiếp tục quân sự hóa Scaborough
Shoal thì có nguy cơ sẽ bị cô lập như “xây Vạn lý Trường thành tự cô
lập mình”. Tiếp theo, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Gen Nakatami cũng
chỉ trích Trung Quốc và tuyên bố Nhật sẽ giúp các nước Đông Nam Á tăng
cường năng lực an ninh tại Biển Đông.
Đáng chú ý là tại Shangri-La 15, NATO cũng tuyên bố sẽ có
bước đi cần thiết trước động thái mới của Trung Quốc ở biển Đông. Bộ
trưởng Quốc phòng Pháp Jean-Yves Le Drian kêu gọi lực lượng hải quân
châu Âu có sự hiện diện “thường xuyên và rõ ràng” tại khu vực, để duy
trì luật biển và tự do hàng hải. Le Drian nói “nếu luật biển không được
tôn trọng tại các vùng biển gần Trung Quốc, thì sau này nó sẽ bị đe dọa ở
Bắc Cực, ở Địa Trung Hải, hay ở nơi khác”. Sau Shangri-La 15, Bộ trưởng
Quôc phòng Pháp đã đến thăm Việt Nam như để khẳng định lập trường mới
của họ. Thái độ cứng rắn hơn của Mỹ, Nhật, Ấn Độ và NATO là đối trọng
làm chuyển hóa lập trường ASEAN bớt phụ thuộc vào Trung Quốc. Tuy Cộng
đồng Kinh tế ASEAN (AEC) đã ra đời, nhưng ASEAN vẫn còn bị phân hóa.
Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ đã tiến hành tập trận quy mô lớn tại tây
thái bình Dương (10-18/6/2016). Đây là cuộc tập trận thường niên
(Malabar) giữa Mỹ với Ấn Độ và Nhật Bản (“Tam cường”), nhằm thiết lập
trật tự an ninh hàng hải mới tại Đông Á để đối phó với các hành động
quân sự hóa của Trung Quốc tại Biển Đông và Biển Hoa Đông. Trong tương
lai, nếu Úc tham gia thì quy mô tập trận sẽ mở rộng thành “Tứ cường”.
Ngoài ra, Mỹ đang tăng cường lực lượng hải quân và không quân cho khu
vực này, điều một phần Hạm độ 3 tới Biển Đông và một phi đội 4 máy bay
tác chiến điện tử E/A 18G Growler tới căn cứ Clark (Philippines), sau
khi triển khai các loại máy bay hiện đại nhất tới khu vực này như Global
Hawk và F-35, cùng với 5 máy bay A-10C Thunderbolt, và 3 trực thăng
HH-60G Pave Hawk.
Sự cố hi hữu tại hội nghị Côn Minh
Các nước ASEAN chưa thật sự tin tưởng lắm vào chiến lược
“xoay trục” (hay tái cân bằng) của chính quyền Obama cũng như chưa biết
chính quyền mới (Hillary Clinton hay Donald Trump) sẽ “xoay trục” thế
nào. Nhưng họ không có nhiều lựa chọn trước thái độ ứng xử ngày càng
hung hãn và trịch thượng của Trung Quốc tại Biển Đông. Sau hội nghị
thượng đỉnh Mỹ-ASEAN tại Sunnylands (15-16/2/2016), hội nghị ngoại
trưởng ASEAN-China tại Côn Minh (14/6/2016) là một cố gắng của Trung
Quốc để thao túng các nước ASEAN, trước những diễn biến trái chiều trong
khu vực đang làm Trung Quốc ngày càng cô lập.
Theo Carl Thayer (“The Truth Behind ASEAN’s Retracted Kunming
Statement”, Carl Thayer, the Diplomat, June 19, 2016) sự cố ngoại giao
hi hữu xảy ra tại hội nghị Côn Minh là hệ quả của lối ứng xử thô lỗ
(heavy-handed) của Trung Quốc và cách điều phối và ra quyết sách vụng về
của ASEAN (bureaucratic snafu). Sự cố này như một con vịt què, làm bộc
lộ rạn nứt ngày càng sâu sắc giữa ASEAN và Trung Quốc, cũng như sự đồng
thuận lỏng lẻo của ASEAN dễ bị Trung Quốc thao túng. Hãy thử lý giải
những gì đã xảy ra.
Văn bản tài liệu hội nghị khẳng định, “các nước thành viên
ASEAN nhất trí với nội dung của Thông cáo Báo chí do các ngoại trưởng
ASEAN soạn.” Báo Straits Times cũng khẳng định mười ngoại
trưởng ASEAN đã đồng thuận là Thông cáo Báo chí sẽ được ngoại trưởng của
Singapore thay mặt ASEAN công bố tại cuộc họp báo chung ASEAN-China vào
cuối hội nghị. Nhưng vào phút chót, phía Trung Quốc lại đưa ra bản thỏa
thuận 10 điểm (10-point consensus) nhưng ASEAN không thể chấp nhận.
Các Ngoại trưởng ASEAN đã quyết định Ngoại trưởng Singapore
sẽ không dự họp báo chung vì công khai bất đồng với Ngoại trưởng Trung
Quốc trước công chúng là khiếm nhã. Các Ngoại trưởng ASEAN cũng quyết
định ASEAN sẽ ra thông cáo báo chí riêng. Nhưng Trung Quốc lại vận động
Lào và Campuchia ngăn cản việc này. Theo báo Straits Times,
cuộc họp báo chung đó không thành là do “bất đồng không thể hóa giải
giữa ASEAN và Trung Quốc về vấn đề Biển Đông”. Trung Quốc đã gây áp lực
rất lớn với phía Lào (là nước chủ tịch luân phiên) buộc phải yêu cầu
“chỉnh sửa khẩn cấp” một số nội dung Trung Quốc “không hài lòng”.
Camphuchia cũng từ chối ký vào bản Thông cáo Chung, giống như tại Hội
nghị Ngoại trưởng ASEAN tại Phnom Penh (năm 2012), không ra được tuyên
bố chung vì Trung Quốc gây áp lực với Campuchia (là nước chủ tịch ASEAN)
không nhất trí với tuyên bố đó.
Các Ngoại trưởng ASEAN đành quyết định mỗi nước có thể ra
thông cáo riêng theo cách của mình, nhưng lúng túng không biết nên công
bố bản gốc Thông cáo Chung ASEAN như thế nào. Chính vì vậy Malaysia đã
bức xúc (frustrated) về sức ép quá đáng của Trung Quốc đối với ASEAN và
chuyển bản Thông cáo Chung cho AFP, nhưng sau ba tiếng phải thu hồi lại
theo lệnh của Ban Thư ký ASEAN (để “chỉnh sửa khẩn cấp”). Theo báo Straits Times,
một quan chức ngoại giao ASEAN nói rằng việc “Malaysia công bố bản
Thông cáo Chung là biểu hiện quá bức xúc (extreme frustration) của năm
nước thành viên ban đầu cộng với Việt Nam, trước thái độ thô lỗ và ngạo
mạn (crude and arrogant) của phía Trung Quốc”.
Tuy Côn Minh là một thất bại của ASEAN do thiếu đồng thuận, nhưng theo báo Diplomat, “Trung
Quốc chứ không phải ASEAN mới thực sự thất bại tại hội nghị Côn Minh”.
ASEAN đã bày tỏ quan điểm cứng rắn, trái với mong muốn của Trung Quốc.
Chiến thuật “chia để trị” của Bắc Kinh đã khiến nhiều nước ASEAN phản
ứng mạnh hơn. Thông cáo Chung của ASEAN đã làm hỏng ý đồ của Bắc Kinh
muốn xếp tranh chấp biển Đông vào diện giải quyết song phương với từng
nước có tranh chấp (Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei). Theo
AFP, thái độ cứng rắn của ASEAN như một “cái tát ngoại giao” vào mặt
Trung Quốc.
Nhưng ASEAN có dám đứng lên cùng phản đối hành động phiêu lưu
của Trung Quốc tại Biển Đông hay không? Tuy hầu hết các nước ASEAN phản
ứng Trung Quốc mạnh hơn trước, nhưng chỉ có ASEAN và Trung Quốc thôi
thì không thể hóa giải được vấn đề này. Việc Thông cáo Chung được đưa ra
rồi rút lại chứng tỏ cả Trung Quốc và ASEAN phải chịu trách nhiệm, đặc
biệt Lào và Campuchia là hai nước bị Trung Quốc thao túng, gây bất đồng
tại hội nghị Côn Minh. Theo Tổng thư ký ASEAN Lê Lương Minh, “Tất cả đã
đồng ý phát hành bản Thông cáo Chung, trừ Campuchia. Đã có thỏa thuận
nếu không có đồng thuận của cả khối thì từng nước ASEAN riêng rẽ có thể
sử dụng nội dung thông cáo này để thông báo cho báo chí”. Sau đó, các
nước Việt Nam, Philippines, Singapore, Indonesia, đã ra tuyên bố riêng.
Thực ra, nội dung Thông cáo Chung mà Malaysia đưa cho hãng
AFP phản ánh gần như nguyên văn những tuyên bố gần đây của các ngoại
trưởng ASEAN (mà Campuchia đã đồng ý). Vì vậy, vấn đề là Trung Quốc muốn
lợi dụng cơ hội này để phân hóa và thao túng các nước ASEAN. Với vai
trò chủ tịch ASEAN, phía Lào không ra tuyên bố, mà cũng không trả lời
báo chí. Đáng chú ý là chủ tịch nước Trần Đại Quang đã thăm Lào chính
thức và hội đàm với lãnh đạo mới của Lào cùng ngày diễn ra hội nghị
ngoại trưởng tại Côn Minh.
Thông cáo Chung của ASEAN có đoạn nhấn mạnh các ngoại trưởng
(trích) “bày tỏ sự lo ngại sâu sắc trước những diễn biến gần đây đã làm
xói mòn lòng tin, làm gia tăng sự căng thẳng và có khả năng phá hoại hòa
bình, an ninh và ổn định tại Biển Đông… Chúng tôi cũng không thể bỏ qua
những gì đang diễn ra tại Biển Đông vì đó là một vấn đề quan trọng
trong quan hệ và hợp tác giữa ASEAN và Trung Quốc…” (hết trích).
Nhưng tiếp theo, điều còn quan trọng hơn như là một thử thách
lớn đối với các nước ASEAN là phải cố gắng đạt được đồng thuận về một
Tuyên bố Chung của ASEAN sau khi Tòa án Trọng tài Quốc tế về luật biển
ra phán quyết (dự kiến 7/7/2016).
Thử lý giải một vài nghịch lý
Đoàn kết ASEAN là một huyền thoại (myth). Người ta hay ví
đoàn kết ASEAN như một bó đũa, nếu bị tách ra từng chiếc thì có thể bị
bẻ gẫy. Vì vậy, Trung Quốc tìm mọi cách “chia để trị”. ASEAN vẫn tự hào
và duy trì nguyên tắc “không can thiệp” (non-interference), nhưng nếu bị
Trung Quốc bắt nạt, thì làm sao có thể ứng cứu cho nhau trong một hệ
thống an ninh tâp thể? Người ta hay nói ASEAN “đồng thuận” trong “đa
dạng”. Nghe thì rất hay, nhưng nếu “đồng thuận” không thực chất, trong
khi “đa dạng” quá nhiều như “đồng sàng dị mộng” thì ASEAN không thể
mạnh. Cộng đồng ASEAN phải đổi mới thể chế.
COC là một ảo tưởng (illusion). Mấy thập kỷ nay, ASEAN đàm
phán (không thành công) với Trung Quốc về bộ “Quy tắc Ứng xử” (Code of
Conduct) tại Biển Đông. Điều đó dễ hiểu vì Trung Quốc đang trỗi dậy,
muốn thay đổi nguyên trạng tại khu vực, thì tại sao họ lại chịu bị trói
bởi luật lệ của kẻ khác. Chừng nào Trung Quốc còn theo đuổi chủ nghĩa
bành trướng bá quyền để chiếm đoạt Biển Đông, thì họ chỉ đàm phán như
một trò chơi để đánh cờ chứ không phải thỏa thuận thực sự. Dù có thỏa
thuận, thì họ cũng xé bỏ nếu cần, vì ASEAN không đủ mạnh để áp đặt được
họ. Đối với Trung Quốc, luật lệ thuộc về kẻ mạnh. Chỉ có đủ mạnh thì
ASEAN mới có thể buộc họ phải theo luật chơi chung. Muốn vậy, ASEAN phải
mở rộng khuôn khổ đối tác chiến lược ra ngoài Đông Nam Á (với Nhật, Hàn
Quốc, Úc, Ấn Độ) và trở thành đồng minh chiến lược với Mỹ. Trước đuổi
Mỹ đi thì bây giờ phải gọi Mỹ lại.
“Ba không một có” là trò chơi chữ (semantic game). Việt Nam
có một nguyên tắc phản ánh mong muốn độc lập và trung lập nghe rất hay
là “Ba không” (không liên minh quân sự với nước khác, không để nước khác
đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ, không dựa vào nước này để chống nước
kia). Muốn duy trì nguyên tắc đó thì quốc gia đó phải đủ mạnh như Thụy
Sỹ, môi trường quốc tế và khu vực phải đủ ổn định. Trong bối cảnh hiện
nay, khi Việt Nam suy yếu và tụt hậu, khi môi trường quốc tế và khu vực
đầy bất ổn, với nguy cơ “Bắc thuộc” và “Hán hóa” ngày càng lớn, thì cố
giữ nguyên tắc “ba không” là đồng nghĩa với tự sát.
Lúc này phải dùng “quẻ biến”. Nhưng biến thế nào? Nếu biến
bằng khẩu hiệu “Ba không Một có” thì chỉ là trò chơi chữ. “Một có” được
hiểu là “những cái gì có thể làm được và làm có mức độ”. Bản chất của
“Ba không” là sợ Trung Quốc và phụ thuộc vào Trung Quốc. “Thoát Trung”
thực chất là thoát khỏi nỗi sợ “thiên triều” và lệ thuộc vào cái bẫy ý
thức hệ. Chừng nào không thoát khỏi cái bẫy này, thì “Một có” hay “Hai
có” chỉ là ảo tưởng để tự lừa mình, chẳng khác gì “xây dựng kinh tế thị
trường theo định hướng XHCN”.
Vì vậy, có vũ khí hiện đại chưa chắc đã mạnh. Phải biết dùng hay dám dùng. Tại
sao gần đây tai nạn máy bay quân sự xảy ra liên tiếp? Do chất lượng khí
tài hay là do “lỗi hệ thống” hay là do “nguyên nhân lạ” nào khác? Ngày
16/4/2015, hai chiếc Su-22 rơi tại vùng biển Ninh Thuận, không rõ nguyên
nhân, làm 2 phi công thiệt mạng (không kịp nhảy dù). Ngày 14/6/2016,
một chiếc Su-30MK2 rơi tại vùng biển gần đảo Hòn Mê (Hà Tĩnh), một phi
công thoát chết, một tử nạn (sau khi nhảy dù xuống biển). Ngày
16/6/2016, chiếc máy bay cứu hộ CASA-212 bị rơi tại vùng biển gần đảo
Bạch Long Vĩ (Hải phòng), trong khi đi tìm kiếm phi công Su-30MK2 vừa bị
nạn. Trên máy bay CASA-212 có 9 quân nhân tử nạn.
21/6/2016
------------------------------------------------------------
Nguồn :TẠI ĐÂY
Một bài viết thể hiện "chất lượng cao" của tác giả.
Trả lờiXóaMột lần nữa lại phải lưu ý đến "thành công" của đường lối đối ngoại "quan hệ đặc biệt" mà ĐCSVN kiên trì thực hiện với Lào và CPC. "Thành công" ấy thể hiện rõ qua việc Lào thực thi vai trò chủ tịch ASEAN bằng cách làm hài long TQ, "vỗ mặt" VN. Rồi Hunsen đăng đàn công khai biện hộ cho lập trường của CPC "trung lập" trong tranh chấp Biển Đông. Thái độ của "2 người anh em chung chiến hào"- Lào và CPC lại được thể hiện sau khi chủ tịch nước VN (mới nhập chức) thực hiện chuyến "thăm cấp nhà nước" đầu tiên đến cả Lao va CPC như sự ưu tiên rõ rệt trong đường lối đối ngoại của ê kíp lãnh đạo mới của VN!
Nói thế nào cũng không thể phủ nhận: TQ hài lòng lắm với 2 "người anh em ruột thịt" của VN!