Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 11 tháng 11, 2013

ĐỌC BÀI NÀY MÀ QUẶN ĐAU NHỚ TỚI BẠN TRẦN LƯƠNG .

Tử tù XHCN trở về từ địa ngục trần gian

Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa những năm trước chiến tranh. Một công nhân lành nghề và lương thiện với người vợ tần tảo, một đàn con ngây thơ 9 đứa quây quần dưới mái ấm hạnh phúc. Bỗng đâu một ngày, xe sít-đờ-ca của Sở Công an Hà Nội ập đến đọc lệnh bắt giữ khẩn cấp người công nhân. Những gì xảy ra sau đó còn khủng khiếp hơn địa ngục. Anh bị biệt giam, bị tra tấn, bị ép cung. Anh bị khép án tử hình nhưng vẫn một mực không nhận tội. Sau mười năm biệt giam chờ thi hành án tử hình, người ta thả anh ra vì thấy vô lý. Câu chuyện về một người tử tù xã hội chủ nghĩa hiện vẫn sống tại Hà Nội.
… Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ
Tiếng oan dậy đất án ngờ lòa mây
Hạ từ van lạy suốt ngày
Điếc tai lân tuất phũ tay tồi tàn…
(Kiều – Nguyễn Du)



Nếu đọc một số tác phẩm nói về tù Hỏa Lò thời miền Bắc XHCN, ta đều thấy nhắc đến một người tù.
Án oan giáng xuống
31 tuổi, Nguyễn Văn Căn bị kết án tử hình, sau khi bị biệt giam 10 năm liền chờ thi hành án thì Căn được Toà tuyên vô tội. Hơn 40 năm qua kể từ ngày ra tù, anh thanh niên Căn ngày nào nay đã thành ông già 83 tuổi. Công việc quan trọng nhất của ông là đội đơn đi khắp nơi xin được đền bù những tháng ngày tù đày oan khuất, nhưng đều vô vọng. Ông vẫn trắng tay như ngày mới ra tù…
Trong túp lều khoảng 12m2 dựng tạm bợ trên vỉa hè đường Hoàng Hoa Thám, Hà Nội, ông Căn run run đưa cho tôi xem tờ đơn khiếu nại, bản quyết định của Toà án nhân dân tối cao tuyên ông vô tội ngày 13/6/1970 có chữ ký của ông Lê Giản lúc bấy giờ là Chánh án Toà án nhân dân tối cao và là Phó Chủ toạ phiên toà. Ông Căn còn lấy ra một trang báo mà ông giữ lại có bài phỏng vấn ông Bộ trưởng Bộ Tư pháp trả lời về vấn đề bồi thường bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng gây ra. Rồi ông cất giọng khàn khàn kể câu chuyện về cuộc đời mình.

“Tôi còn hát bài ca hi vọng!”
Nguyễn Văn Căn sinh năm 1929, sinh sống bằng nghề thợ máy. Căn sống cùng vợ con ở 65 phố Quan Thánh (Hà Nội), sau đó chuyển công tác tới Công ty Bông vải sợi (Hoà Bình). Làm việc ở đây cho đến năm 1957 thì những thay đổi cứ liên tiếp diễn ra ngoài dự tính của Căn. Đang công tác ở Hoà Bình, Căn nhận được quyết định trở lại Hà Nội làm việc tại Nhà máy Giấy Trúc Bạch. Sau này Căn mới biết, người ta chuyển công tác để tiện theo dõi mình. Ngày 30/7/1960 Căn bị bắt cùng 3 người nữa với tội danh gián điệp, tuyên truyền phản cách mạng, giết người, bị tuyên án tử hình, tịch thu 2/3 tài sản rồi bị đưa vào Hoả Lò giam giữ chờ ngày thi hành án.
Trong bản quyết định có nêu Căn bị luận tội vì một vụ án giết người đã xảy ra năm 1957, nạn nhân là em Nguyễn Huy Thịnh, 15 tuổi, nhà có hiệu vàng bạc ở phố Tạ Hiền. Đêm 17/3/1957, em Thịnh được hai người lạ mặt đến xin phép gia đình đưa đi dự liên hoan, rồi từ đó em Thịnh không trở về nữa. Sáng 18/3, xác em Thịnh được phát hiện trên một thửa ruộng của cánh đồng Hào Nam, Giảng Võ (khi ấy thuộc ngoại ô Hà Nội). Tại hiện trường, Công an Hà Nội không thu được gì ngoài một chiếc vòi bơm xe đạp, nghi là thủ phạm bỏ quên tại hiện trường.
… Công an Hà Nội đã điều tra từ năm 1957 đến 1960 mới kết thúc. Nguyễn Văn Căn, Lê Đoan, Nguyễn Hi Sinh, Đoàn Hiểu đã bị bắt và bị truy tố về tội giết người nhằm thực hiện âm mưu gây hoang mang trong quần chúng theo lệnh của Nguyễn Quang Hải (người này đã bị Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xử tử hình tháng 3/1958 trong vụ án gián điệp Phòng Nhì cài lại miền Bắc, tùy viên văn hóa De Bonfils bị trục xuất). Dựa theo lời khai của Đặng Khôi (một can phạm trong tổ chức gián điệp Nguyễn Quang Hải) thì 4 can phạm bị bắt đều nằm trong tổ chức Mặt trận chống cộng miền Bắc do Hải cầm đầu và thủ phạm chính trong vụ giết người là Nguyễn Văn Căn, theo lời khai của Khôi do bị tra tấn, bức cung.
Bị quy giết người, lại hoạt động gián điệp trong tổ chức phản động, cấu kết với nước ngoài chống phá cách mạng miền Bắc XHCN, Căn bị Cục Chấp pháp (Bộ Công an) và Phòng Chấp pháp (Sở CA Hà Nội) đối xử bằng những hình thức tra tấn khủng khiếp nhất và chỉ còn một quyền duy nhất là cúi đầu nhận tội. Bị biệt giam trong xà lim tử hình, Căn không có cơ hội để thanh minh cho sự vô tội của mình. Với tính chất cực kỳ nghiêm trọng như vậy, Căn không có cơ hội tiếp xúc với ai, không biết tin tức gì ở ngoài.
Vào tù, Căn bỏ lại ngoài đời vợ và đàn con 9 đứa. Suốt thời gian nằm trong tù, điều ý nghĩa nhất với Căn là nỗi nhớ vợ con da diết, nhớ những buổi chiều tan giờ làm về, vợ con đã chờ cơm, cả gia đình quây quần ấm cúng. Những hình thức tra tấn tại Hỏa Lò thì cực kỳ khủng khiếp nhưng đều không bằng nỗi nhớ con. Nhớ không ngủ được. Nhớ phát điên lên. Cũng nhờ nỗi nhớ này mà lúc nào Căn cũng hun đúc ý chí phải sống, sống để trở về gặp lại đàn con của mình.
Nhưng sau đó 2 năm, phó giám thị trại giam đã tới báo cho Căn một tin không ngờ: vợ Căn đã nộp đơn xin li dị vắng mặt để lấy chồng khác. Lúc đó, Căn chỉ còn biết nghĩ, mình như thế này rồi không biết sống chết thế nào thì cứ để cho người ta yên tâm đi xây dựng cuộc sống mới, để họ chờ đợi biết đến bao giờ… Cái cảm giác không thôi ám ảnh Căn suốt những năm tháng nằm trong tù: ngày lê thê, đêm vô tận, ngày thì ngủ mà đêm thì thức. Lo sợ nhất là thời gian gần về sáng, miệng thầm mong đừng có tiếng mở cửa, qua thời điểm đó mới yên tâm vì cuộc sống lại được kéo dài thêm.
Nhiều lần Căn hỏi người quản giáo cách thanh minh, kháng cáo nhưng công việc của họ là coi tù nên họ cũng chẳng thể cho Căn biết gì nhiều về các thủ tục. Căn chẳng được gặp ai, chẳng biết làm đơn gửi cho ai nên chỉ mong khi ra toà sẽ có cơ hội kêu oan. Ngay cả khi chính quyền đến nhà Căn xác minh và gia đình làm đơn khiếu nại Căn cũng không biết.
Đến tận ngày 25/5/1965, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao đã quyết định chấp nhận đơn kháng cáo của Nguyễn Văn Căn và chiểu điều 4, điều 6 sắc lệnh 133-SL ngày 20/1/1953 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà xử phạt: Nguyễn Văn Căn tử hình. Đơn kêu oan của Căn tiếp tục được gửi lên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Các tử tù khác, trong thời gian chờ thi hành án, nhiều người phát điên lên vì lo lắng, sợ hãi. Nhưng Căn cố gắng không để cho mình bị rối loạn thần kinh, Căn tin sự vô tội của mình sẽ có cơ hội được minh oan. Một động lực thúc đẩy niềm tin đó là việc dù đã bị tuyên án tử hình nhưng Căn vẫn trong thời gian chờ thi hành án vì chưa có đủ chứng cớ luận tội. Chính vì vậy, một anh bạn tù đã tưởng là Căn bị điên khi thấy Căn cứ ê a các câu hát trong “Bài ca hi vọng”, cậu ta khóc và bảo “sắp chết rồi còn lắm chuyện”, nhưng Căn nói với cậu ta Căn quyết không bi quan, bi quan là công nhận mình có tội. Vậy nên nằm trong tù nhưng Căn luôn nhớ đến những gì tươi vui ngoài xã hội để hát, để tìm đến sự lạc quan! Và trên hết, Căn nhớ tới con. Hình ảnh của chúng hiện ra trong mơ là thiên thần cứu rỗi Căn, giúp Căn sống sót được trong địa ngục trần gian, qua những tháng ngày thê lương, vô tận.
Từ cõi chết trở về
Trong suốt thời gian Căn ở tù, có 3 lần các luật sư vào gặp Căn nói chuyện để tìm cách bào chữa cho Căn. Căn cũng không hiểu hành động của mình đúng hay sai nhưng Căn cứ nhất mực từ chối. “Tôi bảo với họ hãy đi bào chữa cho người khác vì tôi không có tội”. Ban đầu, Căn bị coi là có thái độ bất hợp tác, nhưng rồi các luật sư cũng phản ánh tình hình đó với cấp trên.
Hồ sơ vụ án này được chuyển sang Toà án nhân dân thành phố Hà Nội. Lúc bấy giờ, Luật sư Nguyễn Xuân Dương đang ở cương vị Chánh án Toà án nhân dân thành phố Hà Nội, ông đã nghiên cứu hồ sơ và phân tích các mâu thuẫn của vụ án và nhận định rằng các bị cáo không phạm tội. Trong báo cáo trình lên Thường vụ Thành uỷ Hà Nội, ông Dương viết: “Theo quan điểm của tôi thì về mặt pháp luật, không có đủ căn cứ để kết tội bị cáo. Trong gần 4 năm, từ khi cuộc điều tra kết thúc đến khi đưa vụ án ra xét xử, trong cuộc tranh luận kéo dài về việc các bị cáo có tội hay không có tội, tôi vẫn giữ quan điểm là các bị cáo không có tội”. Luật sư Nguyễn Xuân Dương đã từ chối xét xử vụ án này. Một thẩm phán khác đã được giao xét xử vụ án nhưng vẫn tuyên án tử hình Căn, chung thân Đoan, Sinh 5 năm tù, Hiểu 3 năm tù.
Sau vụ việc này, ông Dương không làm Chánh án nhân dân thành phố Hà Nội nữa, nhưng vẫn đề nghị vụ án Căn, Đoan, Sinh, Hiểu được mau chóng xem xét lại.
Năm 1970, vụ án được Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử lại. Chủ toạ phiên toà đã tuyên cả 4 người đều vô tội. Vậy mà cũng kéo dài 10 năm trời…
Ông Căn nhớ lại: “Đó là một ngày mà tôi không bao giờ quên được. Anh Kim, cán bộ quản giáo đến gặp tôi và bảo chuẩn bị sắp xếp đồ đạc. Tôi nghĩ chắc lại chuyển buồng như mọi khi. Nhưng khi ngồi trước anh Kim, uống nước, hút thuốc thì đột nhiên tôi không tin ở tai mình khi nghe anh Kim nói rất trịnh trọng: “Hôm nay, tôi được lệnh của Toà án nhân dân tối cao đến đọc lệnh trả tự do cho anh và chúc mừng anh từ nay được trở về đoàn tụ với gia đình. Mong anh trở về với xã hội trở thành người cán bộ tốt, những gì Đảng và Nhà nước làm sai thì Đảng và Nhà nước sẽ sửa”. Với tôi, đó là ngày khai sinh lần thứ hai trên đời?.
Căn được cho 100 đồng để đi tàu điện về nhà. Nhưng Căn làm gì còn nhà nữa, vợ con cũng đã rời xa rồi. Mái ấm mà Căn ngày đêm nơi địa ngục mong ngóng trở về nay đã vỡ vụn. Những thiên thần của Căn cũng tan đàn, cầu bơ cầu bất, mỗi đưa một nơi. Căn lếch thếch ôm đống chăn chiếu, áo quần về nhà mẹ đẻ đang ở cùng cậu em trại tại 17C Kim Mã. Người hàng xóm chạy về báo cho mẹ và em trai Căn nhưng họ không tin vì nghĩ Căn đã chết rồi. Trông thấy con trai, người mẹ già chỉ kịp ngã vào Căn rồi ngất lịm. Sau đó chỉ toàn nước mắt mừng vui vì đoàn tụ. Lúc đó, Căn đã 40 tuổi.
Không muốn sống bám vào em trai, sau khi mẹ chết Căn bỏ đi sống một mình, lang thang hết nơi này đến nơi khác (làng Sài, đê Yên Phụ, dốc Bưởi và bây giờ là vỉa hè đường Hoàng Hoa Thám). Người dân ở các khu vực này chẳng lạ gì ông già gầy còm lủi thủi sống trong một túp lều dựng sơ sài với đủ thứ nghề kiếm sống: sửa chữa máy móc, làm thuê, mua bán xe đạp cũ… Cách đây hơn chục năm, một người bạn công tác ở xưởng phim giới thiệu cho ông Căn gặp bà Liễu – một người phụ nữ quê Nam Định lên Hà Nội bán rau – hai hoàn cảnh khốn khó dựa vào nhau kiếm sống và bầu bạn lúc tuổi già.
Mong có điều kiện sống yên thân tuổi già
Chỗ ở hiện nay trước cổng Viện Lao trên đường Hoàng Hoa Thám là đất lấn chiếm, được ông bạn tốt mua của người ta rồi cho lại để ông Căn có chỗ nương thân. Tuy nhiên vì là đất lấn chiếm, chẳng ai có chủ quyền hợp pháp nên nó là nơi lý tưởng cho các vụ tranh chấp có cơ hội xảy ra. Những người sống bên cạnh (cũng thuộc diện lấn chiếm) muốn mua lại miếng đất con con nơi ông Căn ở để mở rộng diện tích kinh doanh nhưng ông không đồng ý. Hai ông bà đã mở hàng ăn và thu nhập cũng đủ một cuộc sống đạm bạc nên không muốn thay đổi. Người dân sống ở khu vực trước cổng Viện Lao chẳng ngạc nhiên lắm mỗi khi dãy lều trên vỉa hè trước cổng Viện xảy ra những vụ ồn ào, trong đó nhiều lần có vụ tranh chấp chỗ ở của ông Căn. Trong một vụ ẩu đả, người ta còn thấy hai ông bà già bị đánh què cả tay. Phải đến khi xung quanh túp lều ông Căn ở thường xuyên bị vứt những thứ xú uế, thì dân xung quanh và cả những người ở Viện chẳng dám đến ăn ở hàng của ông Căn nữa. Việc bán hàng ăn đành phải bỏ, ông Căn chuyển qua nghề mua xe đạp cũ về, hai ông bà già lọ mọ cạo sơn, đánh ráp, tân trang lại rồi bán kiếm lời.
Về chỗ ở của ông Căn, đó là một vòng luẩn quẩn, cán bộ chính quyền địa phương đã nhiều lần trả lời nếu ông có hộ tịch thì có thể sẽ được đền bù khi bị bắt buộc phải di dời khỏi chỗ ở hiện tại. Ông Căn cho biết hộ khẩu của ông trước khi vào tù vẫn ở 65 Quan Thánh, từ khi ra tù ông chưa được nhập hộ tịch ngay, sau đó lại lang thang hết chỗ này đến chỗ khác – mà phải có nhà thì mới được cấp hộ tịch! Bây giờ việc nhập hộ tịch phải lần lại thời gian hơn 50 năm về trước, phải có sự chứng nhận của cơ quan ông Căn công tác, của chính quyền sở tại… “Việc này tôi đã làm rồi nhưng mờ mịt lắm – ông Căn nói – nhất là việc nhờ Công ty Bông vải sợi Hà Nội xác nhận giúp lai lịch của tôi, bây giờ tôi làm gì cũng khó, nói gì đến việc bồi thường chỗ ở – ông Căn thở dài - hàng chục năm sống tạm bợ trên vỉa hè này lúc nào tôi cũng trong tình trạng thấp thỏm lo bị đuổi đi…”.
Đơn từ khiếu nại ông Căn gửi đi chẳng thấy hồi âm. “Từ ngày ra tù đến giờ, cứ cơ quan nào của Đảng và Nhà nước là tôi gửi đơn, nhưng chẳng thấy hồi âm. Duy có một lần họ gửi đơn của tôi trở lại phường Bưởi nhưng tôi chỉ nhận được câu trả lời của địa phương là họ không đủ thẩm quyền giải quyết”.
Khi biết Quốc hội đã thông qua Nghị định bồi thường án oan sai, ông Căn có thêm động lực để tiếp tục gửi đơn khiếu nại. Ông nói: “Người ta thường nói một ngày trong tù bằng thiên thu tại ngoại, huống chi tôi chịu 10 năm tù oan thì bù sao hết những cái đã mất! Bây giờ, tôi cũng chẳng ăn vạ gì đâu mà chỉ mong nhờ có quyết định của Quốc hội, tôi sẽ được bù đắp phần nào, để có điều kiện sống yên ổn tuổi già còn lại”.
Tử tù Nguyễn Văn Căn lắc đầu khi được yêu cầu kể thêm về chế độ giam, phạt dưới mái tù XHCN lúc đó. Ông chỉ vén ngực để lộ những vết sẹo đan nhằng nhịt do tra tấn mà không đưa ra lời kết tội nào, nhưng thảm kịch mà chế độ gây ra đối với ông là lời kết án mạnh mẽ nhất. Thảm kịch đó vẫn tiếp nối đến tận ngày nay khi mà các cấp chính quyền Hà Nội luôn đùn đẩy không giải quyết bồi thường cho người tử tù oan thế kỷ.
                                                                                                                                Kiều Minh
-------------------------------------------------
Bài viết sưu tầm trên mạng xã hội. Tên người, địa chỉ là có thật, tuy nhiên câu chuyện chính xác đến đâu cần phải xác minh .

6 nhận xét:

  1. xin bổ xung thêm 1 chi tiết nhỏ :luật sư NGUYỄN XUÂN DƯƠNG là LS đàu tiên của VN tôt nghiệp ở Pháp.nhà ở phố DÃ TƯỢNG là thân sinh của 2 bạn ở QUẾ LÂM là NGUYỄN XUÂN DŨNG (k6)và NGUYỄN XUÂN LÃNG (K4),bà xã mình gọi ô.Dũng bằng cậu.Thời đi họcđại học mình vẫn đến nhà Ô. DŨNG và vẫn gặp ô. DƯƠNG.Ông người thấp nhỏ nhưng có đôi mắt sáng ,thông tuệ.thời ông làm chánh án khi xử án ông hay bị nhận những giấy viết tay từ trên đưa xuống làm ông ko hài lòng và sau đó ông ko còn được làm chánh án nữa. vụ án này cũng nhờ 1 phần có ý kiến của ô,Dương nên được xem xét lại.LS NGUYỄN XUÂN DƯƠNG cũng đã về với thế giới người hiền từ lâu rồi

    Trả lờiXóa
  2. Câu chuyện thê thảm quá ! chắc còn rất nhiều những câu chuyện đau lòng, oan trái xẩy ra trong nhà tù XHCN VN ta.

    Trả lờiXóa
  3. Khi những câu chuyện này được phanh phui... lòng tin vào pháp luật lần nữa bị sói mòn !
    Thật cảm phục ông Căn khi ông hát "Bài ca hy vọng..."

    Trả lờiXóa
  4. Người chủ tọa phiên tòa tha tội cho ông Căn là bác Lê Giản, thân sinh bạn Tô Thông lớp 6 QL . Bác Lê Giản, người được Bác Hồ giao lập công an cách mạng là cs cm từng bị đầy tận châu Phi. Bác Nguyễn xuân Dương thân sinh bạn Xuân Zũng ( Gs) có đóng góp xứng đáng trong vụ án oan( tôi dùng từ là án đểu) này. Tự hào có những vị cha anh xứng đáng là chiến sỹ cách mạng và trí thức chân chính. Ở thời kỳ đó ( và cả nay cũng vậy) các vị phải có khí phách (vượt qua lắm thói thường) mới hành xử được như vậy.

    Trả lờiXóa
  5. Cảm ơn các cụ đã cho biết về bác Lê Giản, Nguyễn Xuân Dương ( thân sinh chị Tô Thông và anh Xuân Dũng đều ở Lớp 6 Quế Lâm) để chúng ta thêm tự hào về cha chú chúng ta, những người CS có trái tim NHÂN ÁI !

    Trả lờiXóa
  6. Chắc đây không phải là câu chuyện duy nhất về án oan sai. Nếu kể ra chắc còn nhiều lắm.Cái kiểu "bệnh thành tích"như CA Bắc giang làm thì nhiều người còn bị oan lắm.Mong sao Bộ CA sớm chấn chỉnh ngay.

    Trả lờiXóa