Tìm kiếm Blog này

Thứ Năm, 8 tháng 8, 2013

HỒI KÝ CỦA 1 CỰU HS LỚP 1 (Phần 2 )

                                                                                                 Nguyễn Ngọc Hùng
                                                                                                     (Cựu HS Lớp 1)

Chúng tôi sống và học tập tại Trường Học sinh Việt Nam- Quế Lâm từ đầu năm 1954 đến hết năm 1957, ứng với lứa tuổi từ 8 đến 11 của tôi.
Nguyễn Ngọc Hùng trở lại thăm Trường QL
Trên đường trở lại trường Quế Lâm lần này, đoàn chúng tôi đều náo nức với biết bao kỷ niệm. Có lẽ tôi thuộc loại không nhớ nhiều hồi ức về thời gian sống ở Quế Lâm so với một số bạn trong đoàn. Họ kể vanh vách từng thày, từng cô; từ ai là hiệu trưởng đến ai là y tá... Trong khi tôi chỉ nhớ một vài người như thày Quán chủ nhiệm, cô Hương bảo mẫu của lớp mình. (Hồi ấy, chúng tôi còn bé lắm, phải có cô bảo mẫu để lo chuyện tắm, giặt nữa). Rồi thày Mộng Lân dạy hát, thày Toàn dạy thể dục. (Thày Toàn cũng là thành viên trong đoàn trở lại trường xưa của chúng tôi). Về người Trung Quốc, tôi chỉ nhớ rất ít như bác sĩ Đặng nổi tiếng trong vụ cứu sống “Tá chết đuối” và chạy chữa cho “Linh chột mắt”. Rồi y tá Hoa mà con mắt tuổi thơ của tôi đã thấy là một phụ nữ rất đẹp. Ban giám hiệu thì tôi chẳng nhớ một ai, ngoài Bác Cáp là hiệu trưởng đầu tiên mà sau này mới biết là người đã đón Nguyễn Ái Quốc từ TQ về nước năm 1941. Có lẽ nguyên nhân của “sự tậm tịt” này không phải do tôi chóng quên, mà vì thời gian ấy, tôi khá nhu mì, ít tiếp xúc, đặc biệt là với các giáo viên và cán bộ của trường.
Hồi ấy, tôi có biệt danh là “Hùng Híp”, vì mắt một mí, hễ cười là híp tịt lại. Tôi vốn nhút nhát, chỉ nghịch ngầm một mình hoặc a dua theo chúng bạn trong những trò trẻ con; chứ không dám tham gia những trò quậy phá của đám “học sinh cá biệt”. Bạn bè gần gũi với tôi đều là số ngoan và hiền lành. Đó là:
Nguyễn Hồng Châu (HSMN, đến trường năm 1956. Hồi cuối thập niên sáu mươi, gặp lại bất ngờ khi tôi sơ tán tại một làng quê Hải Dương, còn Châu là sinh viên nông nghiệp thực tập đưa máy cày về đồng trũng. Cuối những năm tám mươi, Châu đã là một giám đốc công ty HAMACO của Hà Nội, giàu có lắm).
Tô Thành Công- con ông Tô Quang Đẩu. Sau khi về nước, Công lâm bệnh rồi qua đời từ hồi những năm sáu mươi của thế kỷ trước.
Tô Kiến Xương, nhà ở phố Bảo Khánh, gần Hồ Gươm, Hà Nội. Xương ẻo lả như con gái. Tôi nhớ hai đứa “liên danh” với nhau trong một bức ảnh chung hồi lớp 2, đầu trọc lốc! Hồi cuối những năm tám mươi, tôi gặp lại Xương khi ấy là phó giám đốc Nhà máy cơ khí Hà Nội (tên đầu tiên là “Cơ khí Trung Quy Mô”, ở khu công nghiệp Thượng Đình).
Hồ Sĩ Hậu- em ruột của Hồ Sĩ Tá (Tá “chết đuối”) mà từ sau khi về nước năm 1957 đến nay tôi chưa gặp lại. Nghe nói anh này hiện đeo lon thiếu tướng, cục trưởng một cục gì đó của Tổng cục Kinh tế Quân đội.
Vũ Như Phượng, một nhân vật “nổi tiếng” với biệt danh “Phượng Rỗ”. Phượng không nổi tiếng bởi nghịch ngợm , cũng không tài ba gì. Nhưng “thằng” này rất có duyên kết quen thân. Nó quen rất nhiều người trong trường, cả lớn, cả bé, cả trong và ngoài lớp, cả thày, cô nữa. Ai cũng quý Phượng.
Trong số HSMN nhập trường và lớp chúng tôi năm 1956, có một số bạn tôi vẫn nhớ khá rõ.
Nguyễn Tường, con tướng Nguyễn Chánh, có nước da mai mái, cái đầu tròn thu lu và cái mũi cà chua mọng. Hồi lớp 3, học bài hát “Đội ca Thiếu niên tiền phong” khi Đội mới đổi tên từ “Thiếu nhi tháng 8”, Tường chưa được kết nạp vào Đội. Nhưng hôm kiểm tra bài hát, Tường lên bục, hiên ngang chắp tay sau lưng, mặt nghênh nghênh rất nghiêm trang, ưỡn ngực hùng dũng và cất tiếng hát rất hào sảng: “Ta giương cao cờ Đội, cờ Tiền phong thiếu niên. Ta đắp xây muôn lòng kết liên lại vững bền…”. Nghe nói, trong chiến tranh chống Mỹ, Tường là một cấp chỉ huy cỡ tiểu đoàn của Phòng không.
Nhà HS Nam ngày xưa ( Trên) và bây giờ ( dưới)
Một cậu tên là Kỳ, rất hiền lành. Một số bạn trêu chọc kiểu “ma cũ bắt nạt ma mới”, Kỳ thường né tránh và nói “không thích dởn (dỡn) đâu”. Thế là anh bạn có biệt danh “Kỳ Dởn”. Hồi đầu thập niên chín mươi, tôi vào công tác ở Tp HCM thì gặp Kỳ “dởn” trong một cuộc họp của Bộ Ngoại thương. Anh ta là vụ phó đại diện phía Nam. Nhưng dường như Kỳ cố tình tỏ ra “không quen” tôi.
Một cậu khác tên là Thiện, và “thiện” thật. Rất hiền lành, nhút nhát và thường hay bị Ngô Gia Hồi bắt nạt. Sau khi về nước, thờii học cấp hai, tôi tình cờ gặp Thiện ở bến xe điện Bờ Hồ. Thiện trọc lốc, trông rất ngỗ ngược, hoàn toàn “lột xác” so với Thiện ngây ngô ở Quế Lâm. Thiện đòi tôi chỉ cho biết nhà của Ngô Gia Hồi để tìm đến trả thù! Chà, môi trường HSMN Hà Đông đã thay đổi bản tính của Thiện đến như thế đấy!
Trong số “học sinh cá biệt” của lớp, nổi tiếng nhất là Ngô Gia Hồi, con ông Ngô Gia Khảm. Hồi dường như hơn chúng tôi đến vài tuổi, lanh lẹ, lọc lõi đủ chuyện. Hồi công khai tỏ ra rất tôn sùng Hit- le. Cậu ta dùng đồng phục “bốn túi” sơn hắc ín lên, trông như áo da của phát xít. Rồi làm nẹp tre độn vào trong mũ vải, biến thành mũ kê pi mà chúng tôi vẫn gọi là “mũ vểnh”. Hồi cắt bìa làm quân hàm, huân chương “chữ thập” và lấy bột mì nặn hình chim đại bàng- biểu tượng của Quốc Xã… Hồi thường mặc bộ “quân phục phát xít” ấy mà đe nẹt bạn bè; thậm chí bắt nộp hoa quả và kẹo bánh được phát… Hồi đầu têu nhiều trò nghịch ngợm mạo hiểm khiến cả thày giáo và nhà trường phiền lòng. Ví dụ tụ tập trốn lên núi Mắt Cú nhiều ngày, bỏ học, bắt chước sống như thổ phỉ… Nhưng Hồi có biệt tài rất lạ. Chơi cờ Tướng với nó thì khó ai thắng nổi. Chơi cờ Quân sự với Hồi chỉ có thua, bởi đầu ngón tay của nó có thể “nhận biết” hình vẽ các quân cờ của đối thủ, mặc dù không được nhìn bằng mắt… Hồi cuối cấp 2, khi đã về nước, tôi có gặp Hồi tại Gia Lâm và có đến chơi với nó tại khu tập thể Nhà máy Xe lửa Gia Lâm mà bác Khảm làm giám đốc. Vài năm trước, gặp lại Hồi cùng nhiều bạn khác đồng môn tại Hà Nội. Vẫn cái dáng nghênh nghênh thuở nào. Vẫn có vẻ sống phóng túng lắm. Hồi nói là sắp nghỉ hưu với quân hàm trung tá và lương thượng tá quân đội, vì không có chức vụ chỉ huy…
Con gái thì tôi chỉ nhớ mỗi Chu Hạnh Phúc. Nhớ vì khi mới nhập vào lớp, (Phúc sang Quế Lâm sau khi chúng tôi từ Lư Sơn xuống), Phúc bé tí xíu và rất hay khóc nhè. Nó khóc vì nhớ nhà và bỏ cơm nhiều bữa, khiến thày Quán, cô Hương phải dỗ dành; trông mà “ghét”! Mấy năm nay gặp lại Phúc trong số bạn đồng môn sống tại Tp HCM. Cũng đã “sáu X” và lên bà rồi mà Phúc vẫn có dáng vẻ “mi nhon” lắm…
Ngoài ra còn một vài cái tên với những ký ức mờ nhạt khác: Lê Nghiêm Trang, Khổng Thị Hạc, Cao Thị Nguyệt (HSMN)…

Núi " Mắt Cú"
Ký ức về khu trường thì không tệ lắm.
Rõ nét nhất là khu vực của trường nằm kế chân một dãy núi phía sau. Núi Mắt Cú (do bọn nhỏ chúng tôi tự đặt tên, vì thế núi giống như một con cú đứng im. Đôi mắt cú là hai cái hốc kề nhau sát trên đỉnh) xừng xững đơn độc phía bên phải khu trường, ngay sau nhà bếp tập thể của khối lớp chúng tôi. Đằng sau núi Măt cú là dòng Ly Giang, nơi chúng tôi thường được bảo mẫu dẫn ra tắm tập thể vào mùa hè. Tôi biết bơi từ con sông ấy. Bao quanh trường là một bức tường đá khá cao và dày. Cổng vào trường có vọng gác của các chú Giải phóng quân TQ. Giữa khu trường là một sân vận động đủ kích thước một sân bóng đá. Tại đây, chúng tôi đã tập trung để nghe truyền thanh trực tiếp cuộc mít tinh biễu binh lớn ngày 01.01.1955, khi Bác Hồ và trung ương Đảng ra mắt nhân dân Hà Nội sau ngày hoàn toàn giải phóng. (Nhưng do kỹ thuật phát thanh hồi đó kém quá, nên chỉ nghe toàn tiếng nhiễu ồn ào). Nhà Hiệu Bộ hai tầng bên cạnh một cái hồ khá lớn. Phía  sau những dãy nhà ở và lớp học là một cái hồ lớn hơn, nơi chúng tôi thỉnh thoảng được “du ngoạn” bằng thuyền với sự hướng dẫn của giáo viên chủ nhiệm và cô bảo mẫu. Gần chân dãy núi phía sau là một nhà trệt nhỏ dùng làm bệnh xá cho các trường hợp khá nặng hoặc cần cách ly. Chúng tôi gọi nhà này là “Côn Đảo” vì nó nhỏ nhoi biệt lập và khá hoang vu.
Hồi ấy, trường chúng tôi là một khu hoàn toàn biệt lập và cách khá xa làng mạc của người TQ. Từ trường ra thành phố Quế Lâm cũng không gần. Thỉnh thoảng, chúng tôi được đi tập thể ra Quế Lâm chơi. Phải đi bằng xe tải trên một con đường nhỏ băng qua một cánh đồng…
Ảnh trên: Nhà bát giác xưa và nay. Ảnh dưới : Cổng trường ta ngày xưa
Vậy mà chiều ngày 18.8, khi thực hiện chương trình thăm trường Cao đẳng Sư phạm Chuyên khoa Quảng Tây đóng trên địa điểm trường cũ của mình, (giờ mới biết nơi ấy thuộc thôn Giáp Sơn- đúng là một “làng kề bên núi”), chúng tôi không khỏi hồi hộp, ngỡ ngàng, vì xe chạy trên một con đường dáng dấp ngoại ô thành phố, với những nhà cửa nối tiếp đôi bên, mãi không thấy “cánh đồng” đâu cả. Trong tâm trí tôi vẫn lởn vởn hình ảnh cái cổng trường ngày xưa có mái ngói đỏ vuốt cong như mái chùa... Một ngọn núi đơn độc xuất hiện bên phải đường. Tôi ngờ ngợ. Rồi một cổng trường hiện ra, nhưng hoàn toàn mới lạ, không có mái. Tôi kêu lên: “Đến trường chúng ta rồi”! Thực ra, không có cảnh quan nào để nhận ra dung nhan xưa kia của trường. Tôi chỉ cảm nhận bởi thấy cổng trường đã mở sẵn. Xa bên trong có mấy người lố nhố như đứng đợi và kề đấy có một tấm pa- nô nền đỏ, chữ Việt Nam màu vàng nổi bật. Cảm nhận của tôi được xác định khi xe chạy thẳng qua cổng và chúng tôi đã đọc được nội dung tấm pa- nô: “Nhiệt liệt chào mừng đoàn cựu học sinh Việt Nam đến thăm trường chúng tôi”. Một vài giới chức của trường Cao đẳng sư phạm nồng nhiệt và thân tình đón chúng tôi xuống xe. Sau một vài động tác xã giao ngắn ngủi, chúng tôi bị hút ngay vào tìm lại những cảnh quan của khu trường. Rõ nhất là dãy núi phía sau trường vẫn còn đó với màu xanh lam của cây cỏ lúp súp như xưa. Một vệt đá trắng bạc chạy dọc trên vách núi gợi nhớ hồi xưa chúng tôi thường trèo lên đấy rồi liều mạng tuột xuống theo vệt đá ấy. Tôi đã có lần trèo lên đến đỉnh núi, không cao lắm, nhìn sang phía bên kia là cánh đồng và làng mạc.
Hồ Hiệu bộ hiện nay
Mọi người nhận ra ngay nhà hiệu bộ vẫn nguyên dáng vẻ và màu vôi vàng sẫm như xưa. Tòa nhà hai tầng ấy nay e ấp dưới những bóng cây lớn và thật khiêm nhường khi ngay gần đó là một khối kiến trúc mới đang sắp hoàn thành. Cái hồ vẫn còn đó. Phía trong còn có một tòa nhà 2 tầng nữa y nguyên kiến trúc xưa. Có người trong đoàn nhận ra đó là nhà mà lớp của họ đã ở. Sân vận động đã biến mất. Thay vào đó là một kiến trúc nhiều tầng khá hoành tráng đang trong giai đoạn hoàn thiện. Dường như đó là khu nhà văn phòng và giảng đường lớn của trường hiện nay. Nhìn một vài kiến trúc cũ với kiểu dáng cổ lỗ đứng e ấp bên những khối nhà “vuông thành sắc cạnh”, toàn kính sáng choang mới xây dựng sau này hoặc đang trong thời kỳ hoàn thiện, thấy kệch cỡm làm sao!
Đại diện ban giám hiệu của trường Cao đẳng Sư phạm hiện nay giải thích rằng họ cố tình giữ lại một số kiến trúc cũ, nhằm tạo điều kiện cho các cựu học sinh Việt Nam dễ nhận ra mỗi khi trở lại thăm trường. Xin thàh thật cám ơn ý tưởng đầy tính nhân văn ấy.
Mấy đứa cùng lớp “bé” chúng tôi cứ thắc mắc vì không thấy núi Mắt Cú đâu cả. Sau một lúc bàn tính định hướng, chúng tôi đi vòng ra phía sau khối kiến trúc mới, rồi tới sau nhà hiệu bộ cũ, thì phát hiện núi Mắt Cú bị khuất sau những kiến trúc của một khu khác, bên kia bức tường ngăn cách. Thì ra, khu trường cũ của chúng tôi nay đã ngăn làm hai khu riêng biệt. Chúng tôi đang đứng ở khu văn phòng và giảng đường. Còn bên kia bức tường ngăn cách, nơi có núi Mắt Cú, là khu ký túc xá sinh viên. Chúng tôi phải đi ra cổng trường, vòng sang một cái cổng khác, vào khu ký túc xá. Và núi Mắt Cú hiện ra với đầy đủ dáng vẻ ngày nào trước mắt chúng tôi. Tôi đã ghi hình được ngọn núi ấy ở một góc khá thuận lợi. Hồi ấy, chúng tôi rất thường trèo lên núi Mắt Cú. Có một cái hang rất rộng và sâu ở lưng chừng núi mà chúng tôi thường chui vào đó nghịch ngợm. Đã từng có một nhóm “quậy” ở lớp tôi, do Ngôi Gia Hồi cầm đầu, rủ nhau bỏ học trốn lên hang ấy làm “thổ phỉ” nhiều ngày. Ban đêm, chúng lén về nhà bếp tập thể ngay chân núi để lấy trộm thực phẩm tươi, mang lên hang nướng ăn đúng như thổ phỉ thật. Chúng tôi còn lên núi nhổ kiệu hoang về muối dưa ăn. Kiệu mọc thành từng đám, nhiều lắm. Lại có đứa biết cách làm thạch bằng một loại lá cây gọi là “tiết dê”. Thế là cả bọn lên núi hái từng bó lá về, vò nát, lọc lấy nước, đựng trong chậu rửa mặt, để dưới gầm giường qua đêm. Sáng ra, mỗi đứa một chậu thạch đen đầy. Chỉ tội không có nhiều đường để ăn. Làm thì nhiều, mà đổ đi là chính.
Mấy chị cùng lớp còn vào sâu trong khu ký túc xá, (khi tôi bận quay phim, chụp ảnh) và đã tìm thấy cái hồ lớn vẫn chưa bị lấp.
Nữ y ta xinh đẹp Hồ Khải Hoa (áo xanh) được các cựu HS QL đón tiếp thân tình tại Tp.HCM
Hồ này cũng nhiều kỷ niệm lắm. Nổi tiếng nhất là vụ Hồ Sĩ Tá “chết đuối”. Anh em Tá- Hậu (Hồ Sĩ Hậu) cùng lớp với tôi, nên tôi nhớ “vụ này” rõ lắm. Hôm ấy, lớp tôi được đi thuyền trên hồ. Có hai loại thuyền: Tập thể và 4 người. Thày Quán nói đứa nào biết bơi mới được đi thuyền “4”. Còn lại phải lên thuyền tập thể, lớn hơn và an toàn hơn. Tá nói phét là biết bơi để được lên thuyền “4”. Tuy vậy cũng chẳng có chuyện gì xảy ra khi thuyền di chuyển trên mặt hồ. Nhưng đến khi học sinh lên bờ hết, điểm danh thì thày Quán không thấy Tá. Tội nghiệp thày giáo chủ nhiệm và cả cô Hương bảo mẫu, khi ấy “mặt không còn giọt máu”. Chúng tôi thì cứ ngây ra trong khi thày Quán và cô Hương không giấu nổi sự luống cuống tột độ. Thày hỏi dồn dập xem có em nào trông thấy Tá đâu không? Mãi rồi mới có một đứa ấp ùng nói: “Hình như có một cái quần đen chìm xuống chỗ này”. Nó chỉ xuống chỗ nước chỉ cách bờ hồ vài mét. Nước hồ đục lắm, làm sao trông thấy dưới đáy được. Thày hỏi dồn như quát: “Chắc không? Đúng có thấy người chìm xuống không”? Đứa bạn phát hoảng, không dám chắc lời mình vừa nói. Tuy vậy, thày Quán cũng lập tức nhảy xuống chố nước ấy. Ai cũng nghĩ nó nông lắm, vì ngay sát bờ. Vậy mà thày Quán mất tăm sau khi nhảy xuống. Rồi thày ngoi lên, lấy hơi. Lại lặn xuống lần nữa. Mọi người hồi hộp, lo âu chăm chăm nhìn xuống chỗ nước đục ngầu. Và thầy Quán lại ngoi lên, trên tay là thằng Tá đã “chết” lịm! Thầy lập tức đưa nó lên bờ, dốc ngược đầu xuống, giơ cao hai cổ chân nó và nhảy, nhảy để nó ộc nước ra. Vô ích. Toàn thân Tá tím tái. Nó không ộc nước trong bụng ra được. Thày Quán cõng Tá trong tư thế lộn đầu xuống dưới và chạy một mạch ra trạm xá- “Côn Đảo”. Ở đó, bác sĩ Đặng tiếp nhận cái xác thằng Tá và nỗ lực hết mình để nó sống lại.
Câu chuyện bác sĩ Đặng đưa thằng Tá trở về từ cõi chết không học sinh nào của Quế Lâm thời ấy không biết, mặc dù chỉ được nghe kể lại, vì Tá chịu chế độ chăm sóc đặc biệt suốt ngày đêm, không ai được tiếp cận ngoài bác sĩ Đặng và các trợ lý của bà. Việc Tá không thể tự ộc nước trong bụng ra khiến nó gần như đã chết lâm sàng. Chỉ còn tim thoi thóp đập. Bác sĩ Đặng đã tự mình dùng miệng hút nước trong bụng nó ra; hút cả bùn đất đầy trong mũi, trong miệng nó. Với hoàn cảnh thời ấy, phương tiện, thuốc thang vô cùng thua kém bây giờ, có thể nói nếu không có bác sĩ Đặng, với trái tim nhân hậu và tình thương bao la của bà, thì Tá không thể nào sống lại. Trước đó, chính thày Quán là người không quản gian nan, ngụp lặn tới 2 lần dưới làn nước đục ngầu để mò cho được Tá lên. Đó là hai người đã tái sinh thằng Tá.
Trở lại nguyên nhân cái “chết” của Tá. Thày Quán nói Tá bị thụt xuống một cái hố rất sâu ngay gần bờ. Mấy đứa khác cùng ngồi thuyền với Tá cũng rời khỏi thuyền lên bờ với nó, nhưng chỉ mình Tá thụt đúng hố sâu. Hố ấy là do người ta đào lấy đất đắp lên bờ khi hồ cạn vào mùa đông. Mùa hè, nước đầy hồ, không ai biết sát bờ lại có hố sâu như thế. Bởi vậy, không ai trách “cái tội” của Tá không biết bơi lại ra vẻ, nhận xằng để được đi thuyền “4”. Chỉ có điều không ai lý giải được tại sao khi bị thụt chân xuống hố, ngay trước mắt mọi người cùng lớp, mà Tá không hề quẫy đạp, không hề tri hô? Nó lặng lẽ chìm xuống để chỉ có một đứa (tôi không nhớ là ai) trông thấy “hình như có cái quần đùi đen chìm xuống”?
Bác sĩ Đặng còn cứu thằng “Linh chột” cũng của lớp tôi. Linh ném nhau với đứa nào đó, cũng ở ven cái hồ nói trên. Mùa đông, hồ cạn khô. Dùng đất ném nhau là trò nghịch dại dột mà bọn tôi hay làm. Linh chẳng may bị một hòn đất trúng mắt, khiến con ngươi lòi ra. Sau đó, nó được đưa đi chữa trị. Chúng tôi nghe kể lại: Khi con mắt bị khoét bỏ, mắt giả lắp vào không đung đưa được, trông rất “dại”. Bác sĩ Đặng, vốn có thân hình tròn vo, đã chấp nhận cắt một phần mỡ bụng của mình “lắp” vào hốc mắt Linh, để con mắt giả có độ trơn trượt mà đung đưa được. Chẳng biết đó chỉ là một “huyền thoại” hay chuyện thật nữa? Hồi ấy, tất cả chúng tôi đều coi bác sĩ Đặng như một thần tượng của “tinh thần quốc tế vô sản cao cả”. Còn cho đến bây giờ, chúng tôi không thể không tri ân tấm lòng nhân ái bao la của bà bác sĩ Trung Quốc ấy.
Trường ta ngày xưa nhìn từ  SVĐ
Trường Sư Phạm chuyên khoa  xây dựng trên khu đất Trường TNVN( cũ ) .
Về học hành, chúng tôi được học một chương trình hoàn toàn Việt Nam, với thày Việt Nam, sách giáo khoa tiếng Việt, hình như do chính trường tự in ronéo. Tôi thậm chí còn nhớ một vài bài học thuộc lòng lớp 2, lớp 3 gì đó. Như:
Cháu ơi sắp gánh đi/ Kẻo trưa rồi cháu nhé/ Ông nhìn cháu nhớ hồi còn bé/ Mẹ bán hoa ngóng mẹ suốt ngày/ Cháu đi một gánh hoa đầy/ Cháu về có đủ vải dày, gạo thơm/ Tết này nở trắng nồi cơm/ Áo hoa cháu với hoa vương sáng tươi/ Tết này cái tết bảy mươi/ Lần đầu cùng với hoa cười đón xuân.
Và: Trên bãi cỏ xanh/ Gió chiều lộng mát/ Trên lưng bò em hát/ Những bài ca hòa bình…
Chúng tôi được học toàn diện lắm, cả thể dục, họa và nhạc nữa. Ngay từ hồi cấp 1 ấy, tôi đã có được kiến thức cơ bản đầu tiên về ký- xướng âm của thanh nhạc. Thày Mộng Lân rất tươi trẻ (có lẽ hồi ấy, nhạc sĩ Mộng Lân chỉ mới trên dưới 20 tuổi) và vui nhộn trong các giờ dạy hát. Tôi còn nhớ thày trắng trẻo như con gái và thường có những động tác nhí nhảnh, giả bộ dỗi hờn khiến chúng tôi cười bò lăn ra. Giờ học hát thật thú vị và thoải mái. Tôi nhớ khá nhiều bài hát đã học thời ấy. Những bài hát thiếu nhi, trong đó có không ít do chính thày Mộng Lân sáng tác. Ví dụ như bài: Lớp chúng mình/ rất rất vui/ anh em ta chan hòa tình thân… Hoặc: Đôi bàn tay trong trắng này ai mà không thấy yêu/ Đôi bàn tay trong trắng này, gớm khen ai giữ tài/… Những bài hát thiếu nhi Trung Quốc, trong đó nhớ nhất là bài Đi trại hè: Qua núi xanh qua bao đồng lúa vàng/ Cùng nhau vui ra đi, đi tới nơi tưng bừng… Chúng tôi còn được học nhiều bài hát Trung Quốc hồi ấy, mà hùng tráng nhất là bài Ca ngơi tổ quốc: Cờ hồng nương chiều gió vờn năm cánh sao/ Câu ca chiến thắng đang vui vẻ hát reo… Bài ca này được dùng làm tiết mục mở đầu chương trình biểu diễn hoành tráng trong lễ khai mạc Olympic Bắc Kinh 2008, với hình thức một bé gái hát giữa sân vận động Tổ Chim tối 08.8.2008. Trong hai lần tiếp xúc giữa đoàn chúng tôi với hai trường ở Quế Lâm, tôi đã làm “quản ca” để cả đoàn cựu học sinh đồng ca bài ấy, vừa để gợi nhớ thuở xưa, vừa chúc mừng Olympic Bắc Kinh đang diễn ra; khiến các bạn Trung Quốc rất phấn khích và vui vẻ hát theo. Chúng tôi còn biết nhiều bài trong nước hồi đó, cả những bài ca kháng chiến và những ca khúc mới hòa bình. Nhiều bài hát Liên Xô, Triều Tiên… cũng được chúng tôi học thuộc. Bản thân tôi tự làm một tập bài hát chép tay, đủ cả nhạc, lời và đầu bài đều được trang trí đẹp đẽ. Tiếc là không còn giữ được những kỷ vật này.
Khối lớp cấp 1 của chúng tôi hồi ấy không được học thêm tiếng Trung Quốc, nên bây giờ tôi không thể tự giao tiếp được. Đúng là đã đi nhiều nơi trên thế giới, khi dùng tiếng Anh, lúc dùng tiếng Arab và cả tiếng Nga nữa; nhưng đến Trung Quốc thì chịu chết cứng! Chỉ biết “nỉ hảo”, “siasia nỉ”, “chaichen”; và cách tốt nhất khi nghe người TQ nói là trả lời: “Nỉ sua sừma, ủa pútủng”. Hoặc là “ủa pútủng trungcủa khoa”. Hồi ấy, chúng tôi cũng học lỏm được một vài câu. Ví dụ: “Cơcơ chề phang chuyn, ủa cẩy nỉ chicơ”. Hoặc là: “Chicơ tôxẻo xẻn”; “ủa mấydẩu xẻn”… cùng cách đếm số TQ và cách gọi đồng (khoai), hào (mảo)… để mua phở, mua kem mỗi khi được ra phố Quế Lâm chơi.
Phố xá Quế Lâm hồi ấy nhỏ bé và cũ kỹ lắm. Chúng tôi cũng chỉ biết một khu buôn bán nhỏ hẹp của thành phố mà thôi. Mỗi lần như thế, mỗi đứa được phát ba hào. Tôi cứ ăn phở thịt lợn (xá xíu) hết hai hào rưỡi. Còn năm xu thì một cây kem.
Quế Lâm có núi non sông nước, phong cảnh sơn thủy hữu tình mà người Trung Quốc gọi là "thiên hạ đệ nhất sơn thủy". Nhiệt độ trung bình của Quế Lâm là khoảng 25 độ, quanh năm mát mẻ như Đà Lạt của Việt Nam. Với những tính chất đặc sắc do thiên nhiên ban tặng, Quế Lâm trở thành thành phố du lịch nổi tiếng nhất của Trung Quốc, 90% GDP của Thành phố là từ du lịch.
Thành phố Quế Lâm ngày này đã phát triển gấp rất nhiều lần nửa thế kỷ trước đây, cả về quy mô và chất lượng kiến trúc. Quế Lâm đã trở thành một trung tâm du lịch nổi tiếng của cả nước Trung Quốc. Nổi tiếng bởi phong cảnh sơn thủy hữu tình. Hàng ngàn ngọn núi đá vôi lô nhô đúng tầm cỡ một Vịnh Hạ Long trên cạn. Con sông Ly Giang như một dải lụa xanh luồn qua các ngọn núi. Núi lại soi bóng xuống dòng nước trong xanh, tạo một thiên đường trên địa giới. Chúng tôi không có điều kiện thăm nhiều thắng cảnh ở Quế Lâm, mà chỉ được đến một trong số ấy, là Phố Tây ở huyện Dương Sóc, cách thành phố Quế Lâm lâm chừng hơn 100 cây số. Gọi là “Phố Tây” vì Dương Sóc nằm ở phía tây Quế Lâm; đồng thời cũng là nơi có nhiều “Tây” đến du lịch. Phố xá ở đây khá cổ kính, gợi nhớ Quế Lâm xưa. Có dòng Ly Giang trong xanh soi bóng những dãy núi không xa lắm. Có cây đa cổ thụ 1.500 tuổi, được gọi là Vua Đa… Đáng tiếc nhất là chương trình không có đi thuyền trên dòng Li Giang!
Quế Lâm còn có khu du lịch Núi Voi ngay gần kề thành phố. Đến đây có thể thấy 3 ngọn núi với hình thù những con voi khổng lồ với dáng vẻ khác nhau và đều soi bóng xuống dòng Ly Giang.
Quế Lâm nổi tiếng với vô vàn hang động kỳ thú trong các núi đá vôi. Đây là điểm độc đáo nhất của phong cảnh Quế Lâm, rất nổi tiếng trên thế giới. Hải nói Vịnh Hạ Long của Việt Nam cũng phải thuê chuyên gia trang trí hang động của Quế Lâm sang giúp thiết kế ánh sáng. Vậy mà chương trình chuyến đi này không có thăm một hang động nào. Quả là chưa thể nói đã du lịch đến Quế Lâm!
                                                                                         ( Mời xem tiếp phần 3 : Xuống Nam Ninh)

3 nhận xét:

  1. Xin được có nhời chính xác hóa tí ti: Bác Cáp là phụ trách trường chứ không là hiệu trưởng. Hiệu trưởng tôi nhớ có các bậc sau: Bác Phương Hoa( khi bộ trưởng ký QD thành lập trường), bâc Ngô Mậu, về sau tổ chức thành trường cấp 2 Thầy Huy Phương và trường cấp 1 thầy Trần Nội làm hiệu trưởng Thầy Nguyễn đăng Châu có làm hiệu trưởng toàn trường. Việc thứ nữa tôi nhớ là việc bác sỹ Đặng chỉ huy cứu bạn Tá được tổ chức ngay tại sân phòng y tế ( sau thư viện)có phản gỗ và chăng màn chắn gió chứ không đưa ra " côn đảo"( trạm xá).

    Trả lờiXóa
  2. Trong Hồi ký của Nguyễn Ngọc Hùng có một vài chi tiết nhầm lẫn, chưa chính xác. Tôi có trao đổi với tác giả. Bạn Hùng công nhận có thể sai sót vì trí nhớ cuả cậu HS lớp 1 khó có thể đòi hỏi hơn được. Tác giả mong các cụ khi đọc nếu phát hiện thì xin đưa ra ý kiến đính chính. Ở phần nói về Lư Sơn , khu nhà 6 tầng nay TQ cải tạo (bên trong ) thành KS 3 sao (thời điểm chúng tôi sang là cuối tháng 8 đầu tháng 9/2003) . Tên KS này là LƯ SƠN ĐẠI HẠ ( Không phải LẦU). Chữ ĐẠI HẠ nghĩa là NHÀ LỚN . Ở bài này cụ Hân " dọn vườn" là chính xác. Việc mọi người cùng nhau nhớ lại cho chính xác các sự kiện, tên người, tên địa điểm, chức vụ v.v...khi viết lại lịch sử về trường ta là rất đáng hoan nghênh.

    Trả lờiXóa
  3. Nặc danh16:12 9/8/13

    Nguyễn Tường = Nguyễn Anh Tường.

    Trả lờiXóa